Lãnh tụ Kim Jong Un trả lời phỏng vấn trong khi đang họp với Tổn thống Donal Trump.
Trump. "Tất cả có thoải mái ở Hanoi không? Có phải mọi người đều thoải mái chứ?
Phóng viên. Lãnh tụ Kim, ngài có sẵn sàng từ bỏ vũ khí hạt nhân chứ? Cô xinh xinh dịch ra tiếng Hàn, cũng nàng ý dịch lại tiếng Anh
Un."Nếu tôi không sẵn lòng làm thế, tôi chắc không ở đây đâu".
Trump. "Nói hay, chà chà. Đây có thể là câu trả lời hay nhất tôi nghe được đó nghen"
Phóng viên. Ngài sẵn sàng để có những bước chắc chắn rồi hay vẫn chưa chính thức?
Un. "Thì chúng tôi đang bàn đấy thôi"
Trump. (nói với các phóng viên) "Mà làm ơn đừng lên giọng -khi hỏi Un- không phải như đang nói với Trump đâu".
Un. Họ đều có vẻ như vậy, nhể, hồi hộp"
Trump. "Họ đều lo lắng mà, rồi êm thôi"
Phóng viên. "Lãnh tụ Kim, ngài sẽ thảo luận về nhân quyền với tổng thống Trump chứ?"
Trump. "Chúng tôi đang có những thảo luận chất lượng, rồi chúng ta sẽ có kết luận, hiện đang có những thảo luận rất chất lượng. Tôi cho là chúng tôi sẽ có họp báo sau này trước khi chúng tôi về nước, theo tôi, chúng tôi đã có cuộc thảo luận chất lượng và mối quan hệ tốt nhất từ trước đến nay, tốt hơn, phải tôi cho là là tốt hơn đó."
Thứ Năm, 28 tháng 2, 2019
Thứ Tư, 13 tháng 2, 2019
Venezuela, tự hủy diệt.
Bài tiểu luận của Moisés Naím và Francisco Toro, được viết tháng 12/2018.
Moisés Naím là thành viên quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, chuyên trách về Quốc tế cho báo El País và biên tập viên của The Atlantic.
Francisco Toro là hội viên danh dự Group of Fifty, Sáng lập viên báo Caracas Chronicles, và bình luận gia về quan hệ quốc tế tại The Washington Post.
Bài học thất bại từ một quốc gia.
Thử so sánh 2 nước Nam Mỹ:
1- Nước thứ nhất, là một trong những nền dân chủ vững mạnh và lâu đời nhất của khu vực, đồng thời tự hào có một mạng lưới an sinh xã hội hoàn chỉnh hơn bất kỳ nước láng giềng nào và đang trên lộ trình với mục tiêu sẽ cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục đại học miễn phí cho mọi công dân. Nó là một hình mẫu linh động về mô hình xã hội và mục tiêu mơ ước cho nhiều di dân từ khắp châu Mỹ Latinh và cả châu Âu. Báo chí tự do, hệ thống chính trị mở cho các đảng đối lập cạnh tranh nhau quyết liệt trong các cuộc bầu cử và thường xuyên các đảng phái tranh chuyển quyền lực một cách hòa bình, nó đã tránh được làn sóng bạo lực của các chính quyền quân sự độc tài đã làm khổ một số nước Mỹ Latinh. Có một liên minh chính trị lâu dài cùng với quan hệ thương mại và đầu tư sâu sắc với Hoa Kỳ, nó đóng vai trò là đầu tàu của Mỹ Latinh cho một loạt các tập đoàn đa quốc gia, có cơ sở hạ tầng tốt nhất ở Nam Mỹ, vẫn không thể chối bỏ nó là một quốc gia đang phát triển, có phần tham nhũng, có bất công và rối loạn, nhưng nó vượt xa các nước nghèo khác trên mọi phương diện.
2- Quốc gia thứ nhì, là một trong những quốc gia nghèo nàn nhất ở Nam Mỹ và có chế độ độc tài mới nhất của nó, một nửa số trường học bỏ hoang, hệ thống y tế xuống cấp tàn tệ bởi hàng thập kỷ thiếu đầu tư, tham nhũng và bị bỏ bê. Các loại bệnh truyền nhiễm vắng bóng đã lâu như sốt rét và sởi đã quay trở lại. Chỉ có một tầng lớp nhỏ giàu có mới đủ khả năng để ăn tiêu, một làn sóng bạo lực đã khiến nó trở thành một trong những quốc gia giết người nhiều nhất trên thế giới, đây cũng là nguồn gốc của cuộc tị nạn lớn nhất ở Mỹ Latinh trong cả thế hệ, hàng triệu người dân chạy trốn trong vài năm qua. Hầu như không chính phủ nào công nhận cuộc bầu cử gian dối mới đây (ngoài các chính phủ độc tài khác) và các phương tiện truyền thông nào không chịu nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước luôn lo sợ bị trả thù. Tính đến cuối năm 2018, nền kinh tế của nó đã bị thu hẹp chỉ còn khoảng một nửa trong năm năm qua, trở thành hành lang chính buôn bán cocaine, vài nhà môi giới quyền lực quan trọng trong giới tinh hoa chính trị của nó đã bị truy tố tại Hoa Kỳ về ma túy. Lạm phát làm giá gấp đôi sau mỗi 25 ngày, sân bay thủ đô chính bị bỏ hoang, chỉ được sử dụng bởi một số ít các hãng hàng không còn trụ lại đưa số hành khách ít ỏi đến và đi từ thế giới bên ngoài.
Hai quốc gia này thực ra chỉ là một, nó là Venezuela vào hai thời điểm khác nhau: Đầu những năm 1970 và ngày nay. Sự thay đổi mà Venezuela đã trải qua quá triệt để, quá tàn khốc và hoàn toàn không thể tin rằng nó đã diễn ra mà không có chiến tranh. Chuyện gì đã xảy ra với Venezuela? Làm thế nào mà mọi thứ đã sai đến như vậy?
Câu trả lời ngắn gọn là Chavismo -Chủ nghĩa Chávez- dưới sự lãnh đạo của Hugo Chávez và người kế vị, ông Nicolás Maduro đất nước đã trải qua một sự pha trộn độc hại của chính sách phá hoại bừa bãi, đỉnh cao chủ nghĩa độc đoán, và kleptocracy -quan điểm vinh thân phì gia của gai cấp cầm quyền- tất cả dưới sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến độ gần như bị đô hộ của Cuba. Bất kỳ một trong những điều trên đều sẽ tự nó tạo ra vấn nạn lớn cho đất nước và tất cả chúng gộp lại thì đúng là một thảm họa.
Ngày nay, Venezuela là một quốc gia nghèo, phá sản và hình sự hóa chính phủ bởi một lãnh đạo chuyên quyền nghe theo thế lực nước ngoài. Rất ít khả năng để đảo ngược tình huống, nguy cơ bây giờ là sự tuyệt vọng sẽ thúc đẩy người Venezuela dùng những biện pháp cực đoan, tìm sự hỗ trợ nguy hiểm -như can thiệp quân sự do Hoa Kỳ lãnh đạo- có thể khiến tình hình tồi tệ hơn.
Sự nổi dậy của Chavismo -chủ nghĩa Chávez-
Đối với nhiều người, lời giải thích cho tình trạng tồi tệ của Venezuela rất đơn giản: Dưới sự dẫn dắt của Chávez đất nước đã lún quá sâu vào chủ nghĩa xã hội và tất cả các thảm họa sau đó đều bắt nguồn từ lỗi lầm này. Nhưng hãy nhìn Argentina, Brazil, Chile, Ecuador, Nicaragua và Uruguay cũng đã bầu ra các chính phủ xã hội chủ nghĩa trong suốt 20 năm qua, mặc dù mỗi nước đều đã trải qua khủng hoảng về chính trị và kinh tế nhưng không có nước nào -ngoại trừ Nicaragua- đã sụp đổ, thậm chí một số đã vượt lên phát triển thịnh vượng.
Nếu không thể đổ lỗi chủ nghĩa xã hội cho sự sụp đổ của Venezuela có lẽ chỉ còn lại dầu mỏ là thủ phạm, giai đoạn nặng nhất của cuộc khủng hoảng Venezuela trùng khớp với sự sụt giảm mạnh của giá dầu thế giới bắt đầu từ năm 2014, nhưng lời giải thích này cũng không chính xác, sự suy giảm của Venezuela bắt đầu từ bốn thập kỷ trước chứ không phải mới bốn năm trước. Vào năm 2003 GDP trên mỗi lao động của Venezuela đã giảm 37% so với mức cao nhất năm 1978, chính sự suy giảm này là đòn bẩy đưa Chávez lên đài quyền lực. Nên nhớ, tất cả các nước xuất khẩu dầu mỏ đều bị cú sốc thu nhập nghiêm trọng này năm 2014 vì giá dầu giảm mạnh, chỉ riêng có Venezuela không chịu được.
Nguyên nhân làm cho Venezuela sụp đổ sâu xa hơn, hàng thập kỷ suy giảm kinh tế liên tục dần mở đường cho Chávez, đưa một lãnh đạo mị dân kết hợp với một hệ tư tưởng lỗi thời lên nắm quyền và thiết lập một chế độ chuyên chế tham nhũng mô phỏng theo chế độ độc tài Cuba. Cho dù cuộc khủng hoảng đã đưa Chávez lên nắm quyền, hai điều sau: 'Di sản của Chávez và ảnh hưởng của Cuba' phải được coi là ý chính trong bất kỳ nỗ lực nào để giải thích sự việc.
Chávez sinh năm 1954 trong một gia đình bình thường ở nông thôn, được học bổng và trở thành một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, sớm được bí mật tuyển dụng vào một phong trào cánh tả, dành hơn một thập kỷ âm mưu lật đổ chế độ dân chủ, ông được người dân Venezuela biết đến vào ngày 4/2/1992 khi ông lãnh đạo một cuộc đảo chính không thành công, sự thất bại này đã đưa ông vào tù nhưng cũng biến ông ta thành một người hùng đại chúng, người đã thay họ thể hiện sự thất vọng ngày càng tăng với một thập kỷ trì trệ kinh tế. Sau khi được thả, ông đã ra tranh cử tổng thống vào năm 1998 và giành chiến thắng vang dội, chiến thắng cả hai đảng đã từng gắn kết với nền dân chủ Venezuela trong 40 năm.
Điều gì đã thúc đẩy bùng nổ sự giận dữ dân chúng và đưa Chávez lên nắm quyền? Chỉ một từ: "Thất vọng". Nền kinh tế xuất sắc mà Venezuela đã trải qua trong 5 thập kỷ cho đến những năm 1970 đã hết hơi và con đường rộng mở đưa dân chúng đến tầng lớp trung lưu đã bắt đầu thu hẹp, như các nhà kinh tế học Ricardo Hausmann và Francisco Rodríguez đã cho biết: Vào năm 1970, Venezuela đã là quốc gia giàu nhất ở Mỹ Latinh và là một trong hai mươi quốc gia giàu nhất thế giới với GDP bình quân đầu người cao hơn Tây Ban Nha, Hy Lạp và Israel và chỉ thấp hơn 13% so với Vương quốc Anh. Tuy nhiên, đầu những năm 1980 giá dầu mỏ trên thế giới sụt giảm, thời đại tăng trưởng nhanh chóng chấm dứt, doanh thu từ dầu ít hơn đồng nghĩa với việc cắt giảm chi tiêu công, các chương trình xã hội giảm quy mô, tiền mất giá, lạm phát, khủng hoảng ngân hàng, thất nghiệp cao và người nghèo gặp khó khăn. Tuy nhiên, cần nhớ khi Chávez thắng cử lúc này Venezuela vẫn có thu nhập bình quân đầu người trong khu vực chỉ đứng sau mỗi Argentina.
Một lời giải thích phổ biến khác về thắng lợi của Chávez cho rằng cử tri phản ứng đối với sự bất bình đẳng kinh tế, hậu quả của tham nhũng lan rộng, nhưng tại thời điểm Chávez lên nắm quyền, thu nhập toàn dân được phân bổ đều ở Venezuela hơn bất kỳ quốc gia láng giềng nào. Nếu cho rằng bất bình đẳng kinh tế trong dân chúng đưa đến kết quả bầu cử, thì một ứng cử viên giống như Chávez sẽ có nhiều khả năng thắng cử hơn ở Brazil, Chile hoặc Colombia, nơi mà khoảng cách giữa người giàu và nghèo lớn hơn rất nhiều.
Venezuela có thể đã không sụp đổ vào năm 1998 nhưng toàn bộ đã bị đình trệ và trong một số mặt nó bị sụt giảm, đến khi giá dầu giảm xuống chỉ còn 11 đô la/thùng đất nước càng chìm sâu vào khủng hoảng. Chávez đã rất nhanh nhạy nắm thời cơ khai thác sự bất mãn trong dân chúng, những tố cáo hùng hồn của ông về sự bất bình đẳng, phân biệt đối xử, nghèo đói, tham nhũng và giới lãnh đạo chính trị cô lập đã không còn đồng hành với các cử tri đang gặp khó khăn, mọi người hoài cổ về một thời kỳ thịnh vượng trước kia. Những người trong giới tinh hoa chính trị và kinh doanh truyền thống quá tự mãn, trong thời gian vận động bầu cử đã không như Chávez đi sát quần chúng và lấy được lòng của đa số nhân dân lao động.
Dân chúng đã đánh cá số phận vào Chávez, những gì họ nhận được không chỉ là một chính khách mới mẻ cố gắng nâng cao hiện trạng Venezuela mà còn là một biểu tượng cánh tả của Mỹ Latinh và là một người sẽ sớm vang danh thế giới. Chávez trở thành kẻ phá hoại vừa là ngôi sao thu hút tại các hội nghị thượng đỉnh toàn cầu, là người lãnh đạo làn sóng chống Mỹ bùng nổ do Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush chủ trương xâm lược Iraq. Về nội bộ, do ông được đào tạo và trưởng thành từ quân đội, Chávez có thiên hướng tập trung quyền lực và tàn nhẫn với bất đồng chính kiến, ông triệt tiêu không chỉ các chính trị gia đối lập mà cả các đồng minh dám thắc mắc về chính sách của ông, các thuộc cấp của ông nhanh chóng nhận ra: Không còn các cuộc tranh luận về chính sách và chính phủ theo đuổi một chương trình nghị sự thiên tả với rất ít thảo luận hay cân nhắc.
Năm 2001 Chávez bất ngờ ra một sắc lệnh về cải cách ruộng đất mà không có sự tham khảo hay tranh luận nào cảnh báo cho những điều sắp tới. Sắc lệnh này đã phá bỏ các trang trại nông nghiệp lớn và chuyển chúng cho các hợp tác xã nông dân, những người hoàn toàn thiếu bí quyết kỹ thuật, kỹ năng quản lý và vốn để sản xuất ở quy mô công nghiệp. Kết quả sản xuất lương thực sụp đổ, cứ thế hết khu vực này đến khu vực kinh tế khác, chính phủ Chávez ban hành các chính sách tiền hậu bất nhất. Chính quyền chiếm đoạt các liên doanh dầu mỏ sở hữu nước ngoài mà không cần bồi thường và bổ nhiệm các ủy viên chính trị thiếu chuyên môn kỹ thuật để điều hành chúng, quốc hữu hóa các công ty khai thác viễn thông và các công ty cung cấp năng lượng, đưa đến kết quả thiếu nước và điện kinh niên với một hệ thống Internet có tốc độ chậm nhất thế giới. Chính phủ tịch thu các công ty thép chỉ khiến sản lượng thép từ 480.000 tấn mỗi tháng trước khi quốc hữu hóa năm 2008, ngày nay hầu như là số không, kết quả hầu tương tự sau khi quốc hữu hoá các công ty nhôm, công ty khai thác mỏ, hệ thống khách sạn và hãng hàng không quốc gia.
Hết công ty này đến công ty khác sau khi quốc hữu hoá, được giao lại cho phe cánh của Chávez, khi kinh doanh thua lỗ và gặp khó khăn về tài chính chỉ cần trình lên chính phủ, đều được chính phủ lo thanh toán và bù đắp. Năm 2004 giá dầu tăng vọi, kho bạc nhà nước lấp đầy tiền từ dầu hoả giúp cho Chávez thoải mái chi mà không bị kiểm soát hoặc ràng buộc gì. Trên hết mọi chuyện là các khoản vay quá dễ dàng từ Trung Quốc, China rất sẵn sàng thả cửa tín dụng cho Venezuela để đảm bảo đổi lấy nguồn cung cấp dầu thô, về phía Chávez bằng cách nhập khẩu tất cả mọi thứ mà nền kinh tế rỗng tuyếch của Venezuela không sản xuất được và vay tiền để trám vào khoản thiếu hụt do sự bùng nổ tiêu dùng, chính phủ Chávez đã có thể tạm thời che mắt công chúng khỏi tác động của các chính sách tai hại của mình và duy trì sự tin tưởng của dân chúng.
Nhưng không phải ai cũng bị thuyết phục, công nhân ngành dầu khí là một trong những người đầu tiên gióng lên hồi chuông cảnh báo về xu hướng độc tài của Chávez, công nhân tham gia đình công vào năm 2002 và 2003, yêu cầu một cuộc bầu cử tổng thống mới. Trả đũa các cuộc biểu tình, chính phủ Chávez đã sa thải gần một nửa lực lượng lao động trong công ty quốc doanh dầu mỏ và áp đặt một chế độ nhà nước kiểm soát hối đoái chặt chẽ -hệ thống mà sau này biến tướng thành mỏ vàng cho tham nhũng- khi những viên chức chính phủ nhận ra rằng chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái nhà nước và thị trường chợ đen có thể mang lại giàu có chỉ sau một cú áphe, điều này đã tạo ra một tầng lớp cực kỳ giàu có của các quan chức trong chính phủ, khi những quan chức này hoàn thiện nghệ thuật chuyển số tiền -có được nhờ dầu mỏ- này vào túi của mình, kết quả là các kệ hàng hoá của Venezuela trong siêu thị trở nên trống trải.
Tất cả những dự đoán tồi tệ này đều được công khai, từ các chuyên gia trong nước và quốc tế đã báo động rộng rãi, nhưng đổi lại chính phủ Chávez càng bám chặt vào đường lối của họ, đối với Chávez những cảnh báo khốc liệt từ các nhà kỹ trị lại là dấu hiệu cho thấy cuộc cách mạng của ông đang đi đúng hướng.
Người kế thừa
Năm 2011 Chávez chẩn đoán bị ung thư, các bác sĩ ung thư hàng đầu Brazil và Hoa Kỳ đề nghị điều trị cho ông, nhưng ông đã chọn chữa trị ở Cuba, đất nước mà ông một lòng tin tưởng không chỉ chữa trị mà còn có thể giữ bí mật về bệnh tình của ông. Khi bệnh tình của ông trở nặng, sự lệ thuộc của ông vào Havana ngày càng lún sâu, bí mật về tình trạng sức khỏe thực sự của ông càng thêm mù mờ.
Vào ngày 8/12/2012, một Chávez ốm yếu xuất hiện trên truyền hình lần cuối để yêu cầu người dân Venezuela chuẩn nhận ông Maduro -lúc đó là phó tổng thống- là người kế nhiệm ông, trong suốt ba tháng kế cả nước Venezuela bị chi phối và điều khiển từ xa: Các sắc lệnh gởi đi từ Havana mang chữ ký Chávez -không ai nhìn thấy ông ta và đầy rẫy đồn đoán rằng ông đã chết- cuối cùng khi cái chết của Chávez được công bố vào ngày 5/3/2013, điều duy nhất rõ ràng giữa bầu không khí mờ ảo của bí mật và che giấu là nhà lãnh đạo tiếp theo của Venezuela -ông Maduro- sẽ tiếp tục truyền thống chịu ảnh hưởng của Cuba.
Chávez từ lâu đã xem Cuba như một hình mẫu cách mạng và ông đã nhiều lần gặp Chủ tịch Fidel Castro để xin lời khuyên tại các thời điểm quan trọng, đổi lại Venezuela đã gửi dầu viện trợ năng lượng cho Cuba (dưới dạng 115.000 thùng mỗi ngày được bán với giá giảm đặc biệt) trị giá gần 1 tỷ USD mỗi năm cho Havana. Chávez đã từng nói mối quan hệ giữa Cuba và Venezuela không những thân thiết hơn là một đồng minh mà là một sự hợp nhất của hai cuộc cách mạng. (Đây là một quan hệ bất thường, thường thì trong liên minh, các nước đàn em nghèo hơn và nhỏ hơn so với đồng minh cấp trên, nhưng ở đây ngược lại Cuba có thẩm quyền hơn rất nhiều và chi phối mối quan hệ.) Cuba rất cẩn thận để giữ mình đằng sau bức màn sân khấu: hầu hết các cuộc tham vấn xảy ra tại Havana chứ không trực tiếp tại Caracas.
Người mà ông Chávez chọn làm thừa kế -ông Maduro- đã không thoát khỏi sự chú ý của công luận, ông Maduro là người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản Cuba, khi còn trẻ Maduro đã tham gia đảng Marxist thân Cuba ở Caracas, vào tuổi 20 thay vì học đại học ông đã theo học khóa đào tạo tại Havana nhằm huấn luyện cán bộ quốc tế trở thành các nhà cách mạng chuyên nghiệp. Từ năm 2006 đến 2013 khi là bộ trưởng ngoại giao của chính phủ Chávez ông hiếm khi gây sự chú ý đến bản thân mình, chỉ có lòng trung thành tuyệt đối của ông đối với Chávez, riêng quan hệ với Cuba được ông đẩy ông lên đỉnh cao mới, dưới sự lãnh đạo của ông ảnh hưởng của Cuba tại Venezuela đã trở nên phổ biến, ông đã sắp xếp các chức vụ quan trọng của chính phủ cho các nhà hoạt động được đào tạo từ Cuba và người Cuba đã chiếm giữ các vai trò nhạy cảm trong chế độ Venezuela. Ví dụ điển hình, tóm tắt thông tin tình báo hàng ngày tường trình cho Maduro, được biên soạn không phải bởi người Venezuela mà bởi các sĩ quan tình báo Cuba.
Với sự hướng dẫn của Cuba, Maduro đã hạn chế tối đa các quyền tự do kinh tế và xóa bỏ mọi dấu vết còn lại của chủ nghĩa tự do khỏi nền chính trị và thể chế của đất nước, ông đã kế tục và mở rộng chính sách của Chávez về việc bỏ tù, lưu đày hoặc cấm các nhà lãnh đạo đối lập sinh hoạt chính trị, những người trở nên quá nổi tiếng hoặc không thể mua chuộc. Julio Borges -một nhà lãnh đạo đối lập hàng đầu- đã phải lưu vong để tránh bị bỏ tù, Leopoldo López nhà lãnh đạo đình đám của phe đối lập, đã bị quản thúc tại gia sau. Hơn 100 tù nhân chính trị vẫn còn bị giam trong nhà tù và các báo cáo về tra tấn rất phổ biến. Các cuộc bầu cử định kỳ đã trở nên xa vời, chính phủ đã tước bỏ quyền lực của Quốc hội đang do các đảng đối lập kiểm soát. Maduro đã tăng cường liên minh với một số chế độ chống Mỹ và chống phương Tây, xoay sang Nga để tìm kiếm vũ khí, an ninh mạng và chuyên môn trong khai thác dầu mỏ, với Trung Quốc để tìm tài trợ tài chánh và xây dựng cơ sở hạ tầng, tìm đến Bêlarut với xây dựng nhà cửa và đến với Iran về sản xuất xe hơi.
Khi Maduro cắt đứt các liên kết cuối cùng còn lại trong liên minh truyền thống giữa Venezuela với Washington và các nền dân chủ Mỹ Latinh khác chung quanh, ông đã để mất đi những lời khuyên kinh tế sáng suốt, ông làm lơ về cảnh báo mà mọi thể chế chính trị đều đồng ý: Mặc dù mọi người đều cảnh báo về lạm phát, Maduro đã nghe theo lời khuyên của Cuba và các cố vấn Marxist -những người đảm bảo với ông rằng sẽ không có hậu quả gì hết- khi ông cho in tiền ra để bù đắp thiếu hụt ngân sách. Không thể chối cãi, một cơn lạm phát siêu khủng xảy ra sau đó.
Một sự kết hợp độc hại của ảnh hưởng từ Cuba, tham nhũng tràn lan, phá bỏ hệ thống kiểm tra và cân bằng dân chủ với sự bất tài lãnh đạo đã khiến Venezuela bị khóa cứng vào các chính sách kinh tế tồi tệ. Khi tỷ lệ lạm phát hàng tháng lên đến ba chữ số, chính phủ phản ứng bằng các chính sách bất nhất càng làm cho tình hình tồi tệ hơn.
Phân tích một sụp đổ.
Gần như tất cả các nền dân chủ tự do sản xuất dầu mỏ như Na Uy, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đã là các nền dân chủ trước khi họ trở thành nhà sản xuất dầu, các chế độ chuyên chế đã tìm thấy dầu chẳng hạn như Angola, Brunei, Iran và Nga đã không thể thực hiện bước nhảy vọt cho nền dân chủ tự do. Trong bốn thập kỷ Venezuela dường như đã đánh bại một cách kỳ diệu những so sánh trên, được dân chủ hóa và tự do hóa vào năm 1958, nhiều thập kỷ sau khi Venezuela tìm thấy dầu mỏ.
Nhưng xét ra gốc rễ của nền dân chủ tự do Venezuela hóa ra rất nông cạn, chỉ hai thập kỷ kinh tế tồi tệ đã làm suy giảm sự ái mộ các đảng chính trị truyền thống, và chỉ dựa vào làn sóng bùng nổ dầu mỏ mà một nhà lãnh đạo mị dân đã phạm lỗi, trong những điều kiện bất thường này ông ta đã có thể quét sạch toàn bộ cấu trúc của hệ thống kiểm tra và cân bằng dân chủ chỉ trong vòng vài năm.
Khi sự bùng nổ giá dầu kéo dài hàng thập kỷ kết thúc vào năm 2014, giá dầu sụt giảm không chỉ làm chính phủ của Chávez mất doanh thu và ảnh hưởng quốc tế, mà còn tác động vào nguồn tín dụng của nước ngoài, các khoản vay tín dụng được rút ra trong thời kỳ bùng nổ dầu mỏ khiến cho đất nước mang khoản nợ quá lớn và nó vẫn phải được tiếp tục trả từ dòng tiền thu nhập đã bị giảm rất nhiều. Venezuela đã đi đến kết thúc với khuôn mẫu chính trị của 'chế độ chuyên chế phát hiện ra dầu mỏ': Trở thành nhóm đầu sỏ bóc lột, dựa vào thiểu số chính trị rồi phớt lờ đa số quần chúng khi họ im lặng, đàn áp dữ dội khi họ phản kháng.
Kết quả đưa đến cuộc khủng hoảng nhân đạo tồi tệ nhất trong lịch sử Tây bán cầu, không có số liệu chính xác về sụp đổ GDP của Venezuela nhưng các nhà kinh tế có thể so sánh với mức giảm 40% của GDP Syria kể từ năm 2012 sau khi bùng nổ nội chiến. Siêu lạm phát đã đạt tới một triệu phần trăm mỗi năm, đẩy 61% người Venezuela sống trong tình trạng cực kỳ nghèo khổ, 89% những người được khảo sát nói rằng họ không có tiền để mua đủ lương thực cho gia đình và 64% cho biết họ đã mất trung bình 11 kg (khoảng 24 pounds) trọng lượng cơ thể do đói. Khoảng 10% của số dân 2,6 triệu người Venezuela đã trốn sang các nước láng giềng.
Nhà nước Venezuela đã hủy bỏ phần lớn việc cung cấp các dịch vụ công cộng như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và thậm chí là trị an. Đàn áp và bạo lực lan tràn là những gì mà người Venezuela nhận được từ chính quyền. Các cuộc biểu tình rầm rộ vào năm 2014 và 2017, chính phủ đã đáp trả bằng hàng ngàn vụ bắt giữ, đánh đập và tra tấn dã man và giết chết hơn 130 người biểu tình.
Trong khi đó, tội phạm kinh tế ngày càng được tiến hành công khai bất chấp luật pháp trực tiếp thông qua chính quyền, nạn buôn bán ma túy đã nổi lên cùng với sản xuất dầu mỏ và chênh lệch hối đoái như một nguồn lợi nhuận chính cho những người thân cận với giới cầm quyền cao cấp, quan chức cấp cao và thành viên của gia đình tổng thống đối mặt với các cáo buộc ma túy ở Hoa Kỳ, tầng lớp nhỏ quyền qúy cũng đã biển thủ tài sản quốc gia ở một mức độ chưa từng thấy. Vào tháng 8, một loạt các doanh nhân liên hệ mật thiết đến chế độ đã bị truy tố tại tòa án liên bang Hoa Kỳ vì tội rửa tiền hơn 1,2 tỷ đô la tiền bất hợp pháp, đây chỉ là một trong những vụ lừa đảo bất hợp pháp từ Venezuela
Toàn bộ khu vực phía đông nam của đất nước đã trở thành một khu mỏ khai thác bất hợp pháp, nơi những người rời khỏi thành phố vì đói, thử vận may trong các mỏ do các băng đảng tội phạm dưới sự bảo vệ của quân đội. Trên khắp đất nước, các băng đảng tù tội, hợp tác với các lực lượng an ninh chính phủ, điều hành các vụ tống tiền béo bở khiến chúng trở thành nỗi sợ hãi cho dân chúng. Các văn phòng của Kho bạc, ngân hàng trung ương và công ty dầu khí quốc gia đã trở thành các trung tâm điều hành các tội phạm tài chính, khi nền kinh tế Venezuela sụp đổ, ranh giới giữa tội phạm và nhà nước đã biến mất.
Rắc rối của Venezuela
Bất cứ khi nào Tổng thống Donald Trump gặp một nhà lãnh đạo Mỹ Latinh ông cũng đề nghị phải làm gì đó về khủng hoảng ở Venezuela. Trump đã yêu cầu hội đồng an ninh quốc gia của ông đưa ra các khuyến cáo về các phương án 'khả thi' và có lúc khi nói về 'các phương án' ông từng nhắc đến việc 'không loại trừ can thiệp quân sự'. Thượng nghị sĩ Cộng hòa Marco Rubio của Florida cũng từng tỏ ý ủng hộ một phản ứng quân sự. Tuy nhiên Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis đã lặp lại một ý kiến phổ thông trong dân chúng, cho rằng "Cuộc khủng hoảng ở Venezuela không phải là vấn đề quân sự", ngay cả các quốc gia láng giềng của Venezuela cũng lên tiếng phản đối tấn công vũ trang vào Venezuela.
Đúng vậy, ảo tưởng của Trump về cuộc xâm lược quân sự là sai lầm trầm trọng và cực kỳ nguy hiểm, cho dù một cuộc tấn công quân sự do Hoa Kỳ lãnh đạo có thể sẽ không gặp trở ngại trong việc lật đổ Maduro ngay tức khắc, nhưng những diễn biến tiếp theo có thể còn tệ hơn như trường hợp Iraq và Libya mà ta đã thấy: khi các thế lực bên ngoài lật đổ các nhà độc tài cai trị các quốc gia đổ vỡ, nhiều khả năng kết quả sẽ mang đến thêm hỗn loạn hơn là ổn định, chứ đừng mong đến dân chủ.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục đối mặt với áp lực để tìm cách cảnh báo sự sụp đổ của Venezuela, các sáng kiến được thực hiện cho đến nay chỉ chứng minh rằng trên thực tế Hoa Kỳ chỉ có thể làm được rất ít. Trong thời Obama, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã cố gắng tiếp cận trực tiếp với chính phủ Venezuela, nhưng các cuộc đàm phán đã tỏ ra vô ích. Maduro đã sử dụng các trung gian quốc tế để đàm phán nhằm vô hiệu hóa các cuộc biểu tình lớn trên đường phố, yêu cầu các nhà lãnh đạo biểu tình ngừng các cuộc biểu tình trong suốt thời gian đàm phán, nhưng các nhà đàm phán của chính phủ sẽ chỉ cù nhầy, đưa ra những nhượng bộ nhỏ được tính toán để chia rẽ đối thủ trong khi họ chuẩn bị cho làn sóng đàn áp tiếp theo. Hoa kỳ và các nước láng giềng của Venezuela cuối cùng đã hiểu được rằng, khi đường phố đi vào ổn định, các cuộc đàm phán chỉ diễn ra dưới tay đạo diễn của Maduro.
Một vài đề nghị sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế mạnh mẽ để gây áp lực buộc Maduro phải từ chức, cả hai chính quyền Obama và Trump đã thử thông qua nhiều vòng trừng phạt nhằm ngăn chặn chế độ Maduro vay nợ mới và ngăn chặn dòng tài chính của công ty dầu khí nhà nước. Cùng với Canada và EU, Washington đã có các biện pháp chế tài với các quan chức như đóng băng tài sản của họ ở nước ngoài và hạn chế đi lại, nhưng các biện pháp trên là dư thừa, nếu mục tiêu là phá hủy nền kinh tế Venezuela thì không có biện pháp trừng phạt nào phá hủy nhanh bằng chính chế độ đó đang làm, điều tương tự cũng hoàn toàn đúng đối với việc phong tỏa dầu hoả: sản xuất dầu mỏ tự nó đã ở vào tình trạng rơi tự do rồi.
Washington có thể tăng cường chính sách mấu chốt của mình ở một khía cạnh khác là: Cuba cần phải có trách nhiệm hơn trong vấn đề này, có nghĩa là trong mọi quan hệ giữa Washington và Cuba thì Venezuela phải là đối tượng trực tiếp và trung tâm vì mọi cố gắng sẽ không đạt được gì nếu không có sự giúp đỡ từ Cuba. Hoa Kỳ có thể phát triển việc chống tham nhũng mạnh hơn, ngăn chặn không chỉ các quan chức phạm tội nhưng có thể cả việc ngăn chặn các thủ lĩnh và gia đình của họ hưởng những thành quả từ tham nhũng hay buôn bán ma túy và tham ô. Hoa kỳ cũng có thể mở rộng lệnh cấm vũ khí thành toàn cầu, chế độ Maduro phải bị hạn chế với một mục tiêu rõ ràng cho những tay chân trung thành đang tiếp tục nuôi dưỡng chế độ hiểu là việc tiếp tục hỗ trợ chế độ sẽ khiến họ bị cô lập ở Venezuela, nhưng triển vọng thành công của một chiến lược như vậy rất mờ mịt.
Sau một thời gian dài lúng túng các quốc gia Mỹ Latinh khác cuối cùng cũng hiểu rằng sự bất ổn của Venezuela sẽ tràn qua biên giới của họ. Khi làn sóng đỏ thiên tả của những năm đầu thế kỷ thoái trào, các nhà lãnh đạo mới bảo thủ hơn ở Argentina, Brazil, Chile, Colombia và Peru đã cân bằng cán cân trong khu vực chống lại chế độ độc tài Venezuela, nhưng cũng đồng thời thiếu đi sự đồng thuận giữa họ, ngoại giao truyền thống đã không đạt mục đích và thậm chí đã phản tác dụng cũng như không tạo được áp lực gì. Chẳng hạn, năm 2017 các quốc gia Mỹ Latinh đe dọa loại Venezuela ra khỏi Tổ chức các quốc gia châu Mỹ, Venezuela đã phản ứng bằng cách đơn phương rút khỏi tổ chức, cho thấy họ không hề quan tâm đến áp lực ngoại giao truyền thống.
Các láng giềng của Venezuela chứng kiến cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng hơn qua lăng kính từ vấn đề người tị nạn, họ lo lắng ngăn chặn dòng người suy dinh dưỡng chạy trốn khỏi Venezuela và đặt thêm gánh nặng vào các chương trình xã hội của họ. Khi chủ nghĩa dân túy dâng lên phản ứng chống lại dòng người tị nạn Venezuela, một số nước Mỹ Latinh có ý đóng cửa khẩu nhưng lại sợ là một sai lầm chỉ làm tồi tệ thêm cuộc khủng hoảng, trong thực tế các nước Mỹ Latinh đã không biết phải làm gì với Venezuela, điều có thể bây giờ chỉ là chấp nhận người tị nạn, điều này ít nhất cũng giúp giảm bớt nỗi khổ của người dân Venezuela.
Quền lực của dân chúng.
Nên nhớ, chế độ đã bắt rễ sâu và chặt chẽ đến nỗi một sự thay đổi của khuôn mặt lãnh đạo dễ hơn là một sự thay đổi của hệ thống.
- Có thể Maduro sẽ bị thay thế bởi một người kém tài hơn nhưng có khả năng giúp Cuba nắm chắc quyền lực tại Venezuela hơn, kết quả như vậy chỉ có nghĩa là nền thống trị nước ngoài vững chắc hơn, chứ không phải là sự trở lại của nền dân chủ.
- Ngay cả khi các lực lượng đối lập -hay một cuộc tấn công vũ trang do Hoa Kỳ lãnh đạo- bằng cách nào đó đã xoay sở để thay thế Maduro bằng một chính phủ mới hoàn toàn, chương trình nghị sự sẽ rất khó khăn.
Một chế độ kế nhiệm sẽ cần phải giảm vai trò to lớn của quân đội trong tất cả các lĩnh vực của khu vực nhà nước, họ sẽ phải bắt đầu lại việc khôi phục các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục và thực thi pháp luật. Họ sẽ phải xây dựng lại ngành công nghiệp dầu mỏ và kích thích tăng trưởng sản xuất các ngành kinh tế khác. Nhà nước phải thoát khỏi những kẻ buôn ma túy, bọn bất hảo, bọn cướp tài nguyên, những tài phiệt tài chính và những kẻ tống tiền đã bám lấy mọi ngóc ngách trong chính phủ và nó sẽ phải thực hiện tất cả những thay đổi này trong bối cảnh môi trường chính trị độc hại, vô chính phủ và khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng.
Với quy mô của những trở ngại này Venezuela có thể sẽ không thể ổn định được trong thời gian dài sắp tới, thách thức trước mắt đối với dân chúng và các nhà lãnh đạo của họ cũng như đối với cộng đồng quốc tế là ngăn chặn tác động suy thoái của quốc gia. Đối với tất cả những đau khổ mà họ đã trải qua, người dân Venezuela chưa bao giờ ngừng đấu tranh chống lại sự sai trái, tính đến mùa hè này người Venezuela vẫn đang tổ chức hàng trăm cuộc biểu tình mỗi tháng, hầu hết người biểu tình là những người địa phương với ít sự lãnh đạo chính trị, nhưng họ cho thấy rõ ý chí chiến đấu cho chính họ.
Tất cả điều đó có đủ để lái đất nước ra khỏi con đường nghiệt ngã hiện tại không? Chắc là không.
Sự tuyệt vọng đang khiến ngày càng nhiều người Venezuela mơ về một can thiệp quân sự do Trump lãnh đạo, điều này mang đến một ảo mộng mãnh liệt cho một dân tộc đau khổ kéo dài, nhưng điều này chỉ có nghĩa là một ảo vọng không sáng suốt, không là một chiến lược nghiêm túc.
Thay vì một cuộc xâm lược quân sự, hy vọng tốt nhất cho Venezuela là đảm bảo rằng những ngọn lửa phản kháng và bất đồng chính kiến xã hội không bị dập tắt và duy trì được sự chống đối với chế độ độc tài. Cuộc phản kháng này một ngày nào đó có thể đặt nền móng cho sự phục hồi các tổ chức dân sự và dân chủ, chắc chắn không dễ dàng và không thể nhanh chóng. Mặc dù tình hình có vẻ tuyệt vọng, nhưng vực dậy một quốc gia từ bờ vực thất bại chưa bao giờ dễ dàng.
Chuyển ngữ 42.
https://www.foreignaffairs.com/articles/south-america/2018-10-15/venezuelas-suicide
Moisés Naím là thành viên quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, chuyên trách về Quốc tế cho báo El País và biên tập viên của The Atlantic.
Francisco Toro là hội viên danh dự Group of Fifty, Sáng lập viên báo Caracas Chronicles, và bình luận gia về quan hệ quốc tế tại The Washington Post.
Bài học thất bại từ một quốc gia.
Thử so sánh 2 nước Nam Mỹ:
1- Nước thứ nhất, là một trong những nền dân chủ vững mạnh và lâu đời nhất của khu vực, đồng thời tự hào có một mạng lưới an sinh xã hội hoàn chỉnh hơn bất kỳ nước láng giềng nào và đang trên lộ trình với mục tiêu sẽ cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục đại học miễn phí cho mọi công dân. Nó là một hình mẫu linh động về mô hình xã hội và mục tiêu mơ ước cho nhiều di dân từ khắp châu Mỹ Latinh và cả châu Âu. Báo chí tự do, hệ thống chính trị mở cho các đảng đối lập cạnh tranh nhau quyết liệt trong các cuộc bầu cử và thường xuyên các đảng phái tranh chuyển quyền lực một cách hòa bình, nó đã tránh được làn sóng bạo lực của các chính quyền quân sự độc tài đã làm khổ một số nước Mỹ Latinh. Có một liên minh chính trị lâu dài cùng với quan hệ thương mại và đầu tư sâu sắc với Hoa Kỳ, nó đóng vai trò là đầu tàu của Mỹ Latinh cho một loạt các tập đoàn đa quốc gia, có cơ sở hạ tầng tốt nhất ở Nam Mỹ, vẫn không thể chối bỏ nó là một quốc gia đang phát triển, có phần tham nhũng, có bất công và rối loạn, nhưng nó vượt xa các nước nghèo khác trên mọi phương diện.
2- Quốc gia thứ nhì, là một trong những quốc gia nghèo nàn nhất ở Nam Mỹ và có chế độ độc tài mới nhất của nó, một nửa số trường học bỏ hoang, hệ thống y tế xuống cấp tàn tệ bởi hàng thập kỷ thiếu đầu tư, tham nhũng và bị bỏ bê. Các loại bệnh truyền nhiễm vắng bóng đã lâu như sốt rét và sởi đã quay trở lại. Chỉ có một tầng lớp nhỏ giàu có mới đủ khả năng để ăn tiêu, một làn sóng bạo lực đã khiến nó trở thành một trong những quốc gia giết người nhiều nhất trên thế giới, đây cũng là nguồn gốc của cuộc tị nạn lớn nhất ở Mỹ Latinh trong cả thế hệ, hàng triệu người dân chạy trốn trong vài năm qua. Hầu như không chính phủ nào công nhận cuộc bầu cử gian dối mới đây (ngoài các chính phủ độc tài khác) và các phương tiện truyền thông nào không chịu nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước luôn lo sợ bị trả thù. Tính đến cuối năm 2018, nền kinh tế của nó đã bị thu hẹp chỉ còn khoảng một nửa trong năm năm qua, trở thành hành lang chính buôn bán cocaine, vài nhà môi giới quyền lực quan trọng trong giới tinh hoa chính trị của nó đã bị truy tố tại Hoa Kỳ về ma túy. Lạm phát làm giá gấp đôi sau mỗi 25 ngày, sân bay thủ đô chính bị bỏ hoang, chỉ được sử dụng bởi một số ít các hãng hàng không còn trụ lại đưa số hành khách ít ỏi đến và đi từ thế giới bên ngoài.
Hai quốc gia này thực ra chỉ là một, nó là Venezuela vào hai thời điểm khác nhau: Đầu những năm 1970 và ngày nay. Sự thay đổi mà Venezuela đã trải qua quá triệt để, quá tàn khốc và hoàn toàn không thể tin rằng nó đã diễn ra mà không có chiến tranh. Chuyện gì đã xảy ra với Venezuela? Làm thế nào mà mọi thứ đã sai đến như vậy?
Câu trả lời ngắn gọn là Chavismo -Chủ nghĩa Chávez- dưới sự lãnh đạo của Hugo Chávez và người kế vị, ông Nicolás Maduro đất nước đã trải qua một sự pha trộn độc hại của chính sách phá hoại bừa bãi, đỉnh cao chủ nghĩa độc đoán, và kleptocracy -quan điểm vinh thân phì gia của gai cấp cầm quyền- tất cả dưới sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến độ gần như bị đô hộ của Cuba. Bất kỳ một trong những điều trên đều sẽ tự nó tạo ra vấn nạn lớn cho đất nước và tất cả chúng gộp lại thì đúng là một thảm họa.
Ngày nay, Venezuela là một quốc gia nghèo, phá sản và hình sự hóa chính phủ bởi một lãnh đạo chuyên quyền nghe theo thế lực nước ngoài. Rất ít khả năng để đảo ngược tình huống, nguy cơ bây giờ là sự tuyệt vọng sẽ thúc đẩy người Venezuela dùng những biện pháp cực đoan, tìm sự hỗ trợ nguy hiểm -như can thiệp quân sự do Hoa Kỳ lãnh đạo- có thể khiến tình hình tồi tệ hơn.
Sự nổi dậy của Chavismo -chủ nghĩa Chávez-
Đối với nhiều người, lời giải thích cho tình trạng tồi tệ của Venezuela rất đơn giản: Dưới sự dẫn dắt của Chávez đất nước đã lún quá sâu vào chủ nghĩa xã hội và tất cả các thảm họa sau đó đều bắt nguồn từ lỗi lầm này. Nhưng hãy nhìn Argentina, Brazil, Chile, Ecuador, Nicaragua và Uruguay cũng đã bầu ra các chính phủ xã hội chủ nghĩa trong suốt 20 năm qua, mặc dù mỗi nước đều đã trải qua khủng hoảng về chính trị và kinh tế nhưng không có nước nào -ngoại trừ Nicaragua- đã sụp đổ, thậm chí một số đã vượt lên phát triển thịnh vượng.
Nếu không thể đổ lỗi chủ nghĩa xã hội cho sự sụp đổ của Venezuela có lẽ chỉ còn lại dầu mỏ là thủ phạm, giai đoạn nặng nhất của cuộc khủng hoảng Venezuela trùng khớp với sự sụt giảm mạnh của giá dầu thế giới bắt đầu từ năm 2014, nhưng lời giải thích này cũng không chính xác, sự suy giảm của Venezuela bắt đầu từ bốn thập kỷ trước chứ không phải mới bốn năm trước. Vào năm 2003 GDP trên mỗi lao động của Venezuela đã giảm 37% so với mức cao nhất năm 1978, chính sự suy giảm này là đòn bẩy đưa Chávez lên đài quyền lực. Nên nhớ, tất cả các nước xuất khẩu dầu mỏ đều bị cú sốc thu nhập nghiêm trọng này năm 2014 vì giá dầu giảm mạnh, chỉ riêng có Venezuela không chịu được.
Nguyên nhân làm cho Venezuela sụp đổ sâu xa hơn, hàng thập kỷ suy giảm kinh tế liên tục dần mở đường cho Chávez, đưa một lãnh đạo mị dân kết hợp với một hệ tư tưởng lỗi thời lên nắm quyền và thiết lập một chế độ chuyên chế tham nhũng mô phỏng theo chế độ độc tài Cuba. Cho dù cuộc khủng hoảng đã đưa Chávez lên nắm quyền, hai điều sau: 'Di sản của Chávez và ảnh hưởng của Cuba' phải được coi là ý chính trong bất kỳ nỗ lực nào để giải thích sự việc.
Chávez sinh năm 1954 trong một gia đình bình thường ở nông thôn, được học bổng và trở thành một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, sớm được bí mật tuyển dụng vào một phong trào cánh tả, dành hơn một thập kỷ âm mưu lật đổ chế độ dân chủ, ông được người dân Venezuela biết đến vào ngày 4/2/1992 khi ông lãnh đạo một cuộc đảo chính không thành công, sự thất bại này đã đưa ông vào tù nhưng cũng biến ông ta thành một người hùng đại chúng, người đã thay họ thể hiện sự thất vọng ngày càng tăng với một thập kỷ trì trệ kinh tế. Sau khi được thả, ông đã ra tranh cử tổng thống vào năm 1998 và giành chiến thắng vang dội, chiến thắng cả hai đảng đã từng gắn kết với nền dân chủ Venezuela trong 40 năm.
Điều gì đã thúc đẩy bùng nổ sự giận dữ dân chúng và đưa Chávez lên nắm quyền? Chỉ một từ: "Thất vọng". Nền kinh tế xuất sắc mà Venezuela đã trải qua trong 5 thập kỷ cho đến những năm 1970 đã hết hơi và con đường rộng mở đưa dân chúng đến tầng lớp trung lưu đã bắt đầu thu hẹp, như các nhà kinh tế học Ricardo Hausmann và Francisco Rodríguez đã cho biết: Vào năm 1970, Venezuela đã là quốc gia giàu nhất ở Mỹ Latinh và là một trong hai mươi quốc gia giàu nhất thế giới với GDP bình quân đầu người cao hơn Tây Ban Nha, Hy Lạp và Israel và chỉ thấp hơn 13% so với Vương quốc Anh. Tuy nhiên, đầu những năm 1980 giá dầu mỏ trên thế giới sụt giảm, thời đại tăng trưởng nhanh chóng chấm dứt, doanh thu từ dầu ít hơn đồng nghĩa với việc cắt giảm chi tiêu công, các chương trình xã hội giảm quy mô, tiền mất giá, lạm phát, khủng hoảng ngân hàng, thất nghiệp cao và người nghèo gặp khó khăn. Tuy nhiên, cần nhớ khi Chávez thắng cử lúc này Venezuela vẫn có thu nhập bình quân đầu người trong khu vực chỉ đứng sau mỗi Argentina.
Một lời giải thích phổ biến khác về thắng lợi của Chávez cho rằng cử tri phản ứng đối với sự bất bình đẳng kinh tế, hậu quả của tham nhũng lan rộng, nhưng tại thời điểm Chávez lên nắm quyền, thu nhập toàn dân được phân bổ đều ở Venezuela hơn bất kỳ quốc gia láng giềng nào. Nếu cho rằng bất bình đẳng kinh tế trong dân chúng đưa đến kết quả bầu cử, thì một ứng cử viên giống như Chávez sẽ có nhiều khả năng thắng cử hơn ở Brazil, Chile hoặc Colombia, nơi mà khoảng cách giữa người giàu và nghèo lớn hơn rất nhiều.
Venezuela có thể đã không sụp đổ vào năm 1998 nhưng toàn bộ đã bị đình trệ và trong một số mặt nó bị sụt giảm, đến khi giá dầu giảm xuống chỉ còn 11 đô la/thùng đất nước càng chìm sâu vào khủng hoảng. Chávez đã rất nhanh nhạy nắm thời cơ khai thác sự bất mãn trong dân chúng, những tố cáo hùng hồn của ông về sự bất bình đẳng, phân biệt đối xử, nghèo đói, tham nhũng và giới lãnh đạo chính trị cô lập đã không còn đồng hành với các cử tri đang gặp khó khăn, mọi người hoài cổ về một thời kỳ thịnh vượng trước kia. Những người trong giới tinh hoa chính trị và kinh doanh truyền thống quá tự mãn, trong thời gian vận động bầu cử đã không như Chávez đi sát quần chúng và lấy được lòng của đa số nhân dân lao động.
Dân chúng đã đánh cá số phận vào Chávez, những gì họ nhận được không chỉ là một chính khách mới mẻ cố gắng nâng cao hiện trạng Venezuela mà còn là một biểu tượng cánh tả của Mỹ Latinh và là một người sẽ sớm vang danh thế giới. Chávez trở thành kẻ phá hoại vừa là ngôi sao thu hút tại các hội nghị thượng đỉnh toàn cầu, là người lãnh đạo làn sóng chống Mỹ bùng nổ do Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush chủ trương xâm lược Iraq. Về nội bộ, do ông được đào tạo và trưởng thành từ quân đội, Chávez có thiên hướng tập trung quyền lực và tàn nhẫn với bất đồng chính kiến, ông triệt tiêu không chỉ các chính trị gia đối lập mà cả các đồng minh dám thắc mắc về chính sách của ông, các thuộc cấp của ông nhanh chóng nhận ra: Không còn các cuộc tranh luận về chính sách và chính phủ theo đuổi một chương trình nghị sự thiên tả với rất ít thảo luận hay cân nhắc.
Năm 2001 Chávez bất ngờ ra một sắc lệnh về cải cách ruộng đất mà không có sự tham khảo hay tranh luận nào cảnh báo cho những điều sắp tới. Sắc lệnh này đã phá bỏ các trang trại nông nghiệp lớn và chuyển chúng cho các hợp tác xã nông dân, những người hoàn toàn thiếu bí quyết kỹ thuật, kỹ năng quản lý và vốn để sản xuất ở quy mô công nghiệp. Kết quả sản xuất lương thực sụp đổ, cứ thế hết khu vực này đến khu vực kinh tế khác, chính phủ Chávez ban hành các chính sách tiền hậu bất nhất. Chính quyền chiếm đoạt các liên doanh dầu mỏ sở hữu nước ngoài mà không cần bồi thường và bổ nhiệm các ủy viên chính trị thiếu chuyên môn kỹ thuật để điều hành chúng, quốc hữu hóa các công ty khai thác viễn thông và các công ty cung cấp năng lượng, đưa đến kết quả thiếu nước và điện kinh niên với một hệ thống Internet có tốc độ chậm nhất thế giới. Chính phủ tịch thu các công ty thép chỉ khiến sản lượng thép từ 480.000 tấn mỗi tháng trước khi quốc hữu hóa năm 2008, ngày nay hầu như là số không, kết quả hầu tương tự sau khi quốc hữu hoá các công ty nhôm, công ty khai thác mỏ, hệ thống khách sạn và hãng hàng không quốc gia.
Hết công ty này đến công ty khác sau khi quốc hữu hoá, được giao lại cho phe cánh của Chávez, khi kinh doanh thua lỗ và gặp khó khăn về tài chính chỉ cần trình lên chính phủ, đều được chính phủ lo thanh toán và bù đắp. Năm 2004 giá dầu tăng vọi, kho bạc nhà nước lấp đầy tiền từ dầu hoả giúp cho Chávez thoải mái chi mà không bị kiểm soát hoặc ràng buộc gì. Trên hết mọi chuyện là các khoản vay quá dễ dàng từ Trung Quốc, China rất sẵn sàng thả cửa tín dụng cho Venezuela để đảm bảo đổi lấy nguồn cung cấp dầu thô, về phía Chávez bằng cách nhập khẩu tất cả mọi thứ mà nền kinh tế rỗng tuyếch của Venezuela không sản xuất được và vay tiền để trám vào khoản thiếu hụt do sự bùng nổ tiêu dùng, chính phủ Chávez đã có thể tạm thời che mắt công chúng khỏi tác động của các chính sách tai hại của mình và duy trì sự tin tưởng của dân chúng.
Nhưng không phải ai cũng bị thuyết phục, công nhân ngành dầu khí là một trong những người đầu tiên gióng lên hồi chuông cảnh báo về xu hướng độc tài của Chávez, công nhân tham gia đình công vào năm 2002 và 2003, yêu cầu một cuộc bầu cử tổng thống mới. Trả đũa các cuộc biểu tình, chính phủ Chávez đã sa thải gần một nửa lực lượng lao động trong công ty quốc doanh dầu mỏ và áp đặt một chế độ nhà nước kiểm soát hối đoái chặt chẽ -hệ thống mà sau này biến tướng thành mỏ vàng cho tham nhũng- khi những viên chức chính phủ nhận ra rằng chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái nhà nước và thị trường chợ đen có thể mang lại giàu có chỉ sau một cú áphe, điều này đã tạo ra một tầng lớp cực kỳ giàu có của các quan chức trong chính phủ, khi những quan chức này hoàn thiện nghệ thuật chuyển số tiền -có được nhờ dầu mỏ- này vào túi của mình, kết quả là các kệ hàng hoá của Venezuela trong siêu thị trở nên trống trải.
Tất cả những dự đoán tồi tệ này đều được công khai, từ các chuyên gia trong nước và quốc tế đã báo động rộng rãi, nhưng đổi lại chính phủ Chávez càng bám chặt vào đường lối của họ, đối với Chávez những cảnh báo khốc liệt từ các nhà kỹ trị lại là dấu hiệu cho thấy cuộc cách mạng của ông đang đi đúng hướng.
Người kế thừa
Năm 2011 Chávez chẩn đoán bị ung thư, các bác sĩ ung thư hàng đầu Brazil và Hoa Kỳ đề nghị điều trị cho ông, nhưng ông đã chọn chữa trị ở Cuba, đất nước mà ông một lòng tin tưởng không chỉ chữa trị mà còn có thể giữ bí mật về bệnh tình của ông. Khi bệnh tình của ông trở nặng, sự lệ thuộc của ông vào Havana ngày càng lún sâu, bí mật về tình trạng sức khỏe thực sự của ông càng thêm mù mờ.
Vào ngày 8/12/2012, một Chávez ốm yếu xuất hiện trên truyền hình lần cuối để yêu cầu người dân Venezuela chuẩn nhận ông Maduro -lúc đó là phó tổng thống- là người kế nhiệm ông, trong suốt ba tháng kế cả nước Venezuela bị chi phối và điều khiển từ xa: Các sắc lệnh gởi đi từ Havana mang chữ ký Chávez -không ai nhìn thấy ông ta và đầy rẫy đồn đoán rằng ông đã chết- cuối cùng khi cái chết của Chávez được công bố vào ngày 5/3/2013, điều duy nhất rõ ràng giữa bầu không khí mờ ảo của bí mật và che giấu là nhà lãnh đạo tiếp theo của Venezuela -ông Maduro- sẽ tiếp tục truyền thống chịu ảnh hưởng của Cuba.
Chávez từ lâu đã xem Cuba như một hình mẫu cách mạng và ông đã nhiều lần gặp Chủ tịch Fidel Castro để xin lời khuyên tại các thời điểm quan trọng, đổi lại Venezuela đã gửi dầu viện trợ năng lượng cho Cuba (dưới dạng 115.000 thùng mỗi ngày được bán với giá giảm đặc biệt) trị giá gần 1 tỷ USD mỗi năm cho Havana. Chávez đã từng nói mối quan hệ giữa Cuba và Venezuela không những thân thiết hơn là một đồng minh mà là một sự hợp nhất của hai cuộc cách mạng. (Đây là một quan hệ bất thường, thường thì trong liên minh, các nước đàn em nghèo hơn và nhỏ hơn so với đồng minh cấp trên, nhưng ở đây ngược lại Cuba có thẩm quyền hơn rất nhiều và chi phối mối quan hệ.) Cuba rất cẩn thận để giữ mình đằng sau bức màn sân khấu: hầu hết các cuộc tham vấn xảy ra tại Havana chứ không trực tiếp tại Caracas.
Người mà ông Chávez chọn làm thừa kế -ông Maduro- đã không thoát khỏi sự chú ý của công luận, ông Maduro là người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản Cuba, khi còn trẻ Maduro đã tham gia đảng Marxist thân Cuba ở Caracas, vào tuổi 20 thay vì học đại học ông đã theo học khóa đào tạo tại Havana nhằm huấn luyện cán bộ quốc tế trở thành các nhà cách mạng chuyên nghiệp. Từ năm 2006 đến 2013 khi là bộ trưởng ngoại giao của chính phủ Chávez ông hiếm khi gây sự chú ý đến bản thân mình, chỉ có lòng trung thành tuyệt đối của ông đối với Chávez, riêng quan hệ với Cuba được ông đẩy ông lên đỉnh cao mới, dưới sự lãnh đạo của ông ảnh hưởng của Cuba tại Venezuela đã trở nên phổ biến, ông đã sắp xếp các chức vụ quan trọng của chính phủ cho các nhà hoạt động được đào tạo từ Cuba và người Cuba đã chiếm giữ các vai trò nhạy cảm trong chế độ Venezuela. Ví dụ điển hình, tóm tắt thông tin tình báo hàng ngày tường trình cho Maduro, được biên soạn không phải bởi người Venezuela mà bởi các sĩ quan tình báo Cuba.
Với sự hướng dẫn của Cuba, Maduro đã hạn chế tối đa các quyền tự do kinh tế và xóa bỏ mọi dấu vết còn lại của chủ nghĩa tự do khỏi nền chính trị và thể chế của đất nước, ông đã kế tục và mở rộng chính sách của Chávez về việc bỏ tù, lưu đày hoặc cấm các nhà lãnh đạo đối lập sinh hoạt chính trị, những người trở nên quá nổi tiếng hoặc không thể mua chuộc. Julio Borges -một nhà lãnh đạo đối lập hàng đầu- đã phải lưu vong để tránh bị bỏ tù, Leopoldo López nhà lãnh đạo đình đám của phe đối lập, đã bị quản thúc tại gia sau. Hơn 100 tù nhân chính trị vẫn còn bị giam trong nhà tù và các báo cáo về tra tấn rất phổ biến. Các cuộc bầu cử định kỳ đã trở nên xa vời, chính phủ đã tước bỏ quyền lực của Quốc hội đang do các đảng đối lập kiểm soát. Maduro đã tăng cường liên minh với một số chế độ chống Mỹ và chống phương Tây, xoay sang Nga để tìm kiếm vũ khí, an ninh mạng và chuyên môn trong khai thác dầu mỏ, với Trung Quốc để tìm tài trợ tài chánh và xây dựng cơ sở hạ tầng, tìm đến Bêlarut với xây dựng nhà cửa và đến với Iran về sản xuất xe hơi.
Khi Maduro cắt đứt các liên kết cuối cùng còn lại trong liên minh truyền thống giữa Venezuela với Washington và các nền dân chủ Mỹ Latinh khác chung quanh, ông đã để mất đi những lời khuyên kinh tế sáng suốt, ông làm lơ về cảnh báo mà mọi thể chế chính trị đều đồng ý: Mặc dù mọi người đều cảnh báo về lạm phát, Maduro đã nghe theo lời khuyên của Cuba và các cố vấn Marxist -những người đảm bảo với ông rằng sẽ không có hậu quả gì hết- khi ông cho in tiền ra để bù đắp thiếu hụt ngân sách. Không thể chối cãi, một cơn lạm phát siêu khủng xảy ra sau đó.
Một sự kết hợp độc hại của ảnh hưởng từ Cuba, tham nhũng tràn lan, phá bỏ hệ thống kiểm tra và cân bằng dân chủ với sự bất tài lãnh đạo đã khiến Venezuela bị khóa cứng vào các chính sách kinh tế tồi tệ. Khi tỷ lệ lạm phát hàng tháng lên đến ba chữ số, chính phủ phản ứng bằng các chính sách bất nhất càng làm cho tình hình tồi tệ hơn.
Phân tích một sụp đổ.
Gần như tất cả các nền dân chủ tự do sản xuất dầu mỏ như Na Uy, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đã là các nền dân chủ trước khi họ trở thành nhà sản xuất dầu, các chế độ chuyên chế đã tìm thấy dầu chẳng hạn như Angola, Brunei, Iran và Nga đã không thể thực hiện bước nhảy vọt cho nền dân chủ tự do. Trong bốn thập kỷ Venezuela dường như đã đánh bại một cách kỳ diệu những so sánh trên, được dân chủ hóa và tự do hóa vào năm 1958, nhiều thập kỷ sau khi Venezuela tìm thấy dầu mỏ.
Nhưng xét ra gốc rễ của nền dân chủ tự do Venezuela hóa ra rất nông cạn, chỉ hai thập kỷ kinh tế tồi tệ đã làm suy giảm sự ái mộ các đảng chính trị truyền thống, và chỉ dựa vào làn sóng bùng nổ dầu mỏ mà một nhà lãnh đạo mị dân đã phạm lỗi, trong những điều kiện bất thường này ông ta đã có thể quét sạch toàn bộ cấu trúc của hệ thống kiểm tra và cân bằng dân chủ chỉ trong vòng vài năm.
Khi sự bùng nổ giá dầu kéo dài hàng thập kỷ kết thúc vào năm 2014, giá dầu sụt giảm không chỉ làm chính phủ của Chávez mất doanh thu và ảnh hưởng quốc tế, mà còn tác động vào nguồn tín dụng của nước ngoài, các khoản vay tín dụng được rút ra trong thời kỳ bùng nổ dầu mỏ khiến cho đất nước mang khoản nợ quá lớn và nó vẫn phải được tiếp tục trả từ dòng tiền thu nhập đã bị giảm rất nhiều. Venezuela đã đi đến kết thúc với khuôn mẫu chính trị của 'chế độ chuyên chế phát hiện ra dầu mỏ': Trở thành nhóm đầu sỏ bóc lột, dựa vào thiểu số chính trị rồi phớt lờ đa số quần chúng khi họ im lặng, đàn áp dữ dội khi họ phản kháng.
Kết quả đưa đến cuộc khủng hoảng nhân đạo tồi tệ nhất trong lịch sử Tây bán cầu, không có số liệu chính xác về sụp đổ GDP của Venezuela nhưng các nhà kinh tế có thể so sánh với mức giảm 40% của GDP Syria kể từ năm 2012 sau khi bùng nổ nội chiến. Siêu lạm phát đã đạt tới một triệu phần trăm mỗi năm, đẩy 61% người Venezuela sống trong tình trạng cực kỳ nghèo khổ, 89% những người được khảo sát nói rằng họ không có tiền để mua đủ lương thực cho gia đình và 64% cho biết họ đã mất trung bình 11 kg (khoảng 24 pounds) trọng lượng cơ thể do đói. Khoảng 10% của số dân 2,6 triệu người Venezuela đã trốn sang các nước láng giềng.
Nhà nước Venezuela đã hủy bỏ phần lớn việc cung cấp các dịch vụ công cộng như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và thậm chí là trị an. Đàn áp và bạo lực lan tràn là những gì mà người Venezuela nhận được từ chính quyền. Các cuộc biểu tình rầm rộ vào năm 2014 và 2017, chính phủ đã đáp trả bằng hàng ngàn vụ bắt giữ, đánh đập và tra tấn dã man và giết chết hơn 130 người biểu tình.
Trong khi đó, tội phạm kinh tế ngày càng được tiến hành công khai bất chấp luật pháp trực tiếp thông qua chính quyền, nạn buôn bán ma túy đã nổi lên cùng với sản xuất dầu mỏ và chênh lệch hối đoái như một nguồn lợi nhuận chính cho những người thân cận với giới cầm quyền cao cấp, quan chức cấp cao và thành viên của gia đình tổng thống đối mặt với các cáo buộc ma túy ở Hoa Kỳ, tầng lớp nhỏ quyền qúy cũng đã biển thủ tài sản quốc gia ở một mức độ chưa từng thấy. Vào tháng 8, một loạt các doanh nhân liên hệ mật thiết đến chế độ đã bị truy tố tại tòa án liên bang Hoa Kỳ vì tội rửa tiền hơn 1,2 tỷ đô la tiền bất hợp pháp, đây chỉ là một trong những vụ lừa đảo bất hợp pháp từ Venezuela
Toàn bộ khu vực phía đông nam của đất nước đã trở thành một khu mỏ khai thác bất hợp pháp, nơi những người rời khỏi thành phố vì đói, thử vận may trong các mỏ do các băng đảng tội phạm dưới sự bảo vệ của quân đội. Trên khắp đất nước, các băng đảng tù tội, hợp tác với các lực lượng an ninh chính phủ, điều hành các vụ tống tiền béo bở khiến chúng trở thành nỗi sợ hãi cho dân chúng. Các văn phòng của Kho bạc, ngân hàng trung ương và công ty dầu khí quốc gia đã trở thành các trung tâm điều hành các tội phạm tài chính, khi nền kinh tế Venezuela sụp đổ, ranh giới giữa tội phạm và nhà nước đã biến mất.
Rắc rối của Venezuela
Bất cứ khi nào Tổng thống Donald Trump gặp một nhà lãnh đạo Mỹ Latinh ông cũng đề nghị phải làm gì đó về khủng hoảng ở Venezuela. Trump đã yêu cầu hội đồng an ninh quốc gia của ông đưa ra các khuyến cáo về các phương án 'khả thi' và có lúc khi nói về 'các phương án' ông từng nhắc đến việc 'không loại trừ can thiệp quân sự'. Thượng nghị sĩ Cộng hòa Marco Rubio của Florida cũng từng tỏ ý ủng hộ một phản ứng quân sự. Tuy nhiên Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis đã lặp lại một ý kiến phổ thông trong dân chúng, cho rằng "Cuộc khủng hoảng ở Venezuela không phải là vấn đề quân sự", ngay cả các quốc gia láng giềng của Venezuela cũng lên tiếng phản đối tấn công vũ trang vào Venezuela.
Đúng vậy, ảo tưởng của Trump về cuộc xâm lược quân sự là sai lầm trầm trọng và cực kỳ nguy hiểm, cho dù một cuộc tấn công quân sự do Hoa Kỳ lãnh đạo có thể sẽ không gặp trở ngại trong việc lật đổ Maduro ngay tức khắc, nhưng những diễn biến tiếp theo có thể còn tệ hơn như trường hợp Iraq và Libya mà ta đã thấy: khi các thế lực bên ngoài lật đổ các nhà độc tài cai trị các quốc gia đổ vỡ, nhiều khả năng kết quả sẽ mang đến thêm hỗn loạn hơn là ổn định, chứ đừng mong đến dân chủ.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục đối mặt với áp lực để tìm cách cảnh báo sự sụp đổ của Venezuela, các sáng kiến được thực hiện cho đến nay chỉ chứng minh rằng trên thực tế Hoa Kỳ chỉ có thể làm được rất ít. Trong thời Obama, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã cố gắng tiếp cận trực tiếp với chính phủ Venezuela, nhưng các cuộc đàm phán đã tỏ ra vô ích. Maduro đã sử dụng các trung gian quốc tế để đàm phán nhằm vô hiệu hóa các cuộc biểu tình lớn trên đường phố, yêu cầu các nhà lãnh đạo biểu tình ngừng các cuộc biểu tình trong suốt thời gian đàm phán, nhưng các nhà đàm phán của chính phủ sẽ chỉ cù nhầy, đưa ra những nhượng bộ nhỏ được tính toán để chia rẽ đối thủ trong khi họ chuẩn bị cho làn sóng đàn áp tiếp theo. Hoa kỳ và các nước láng giềng của Venezuela cuối cùng đã hiểu được rằng, khi đường phố đi vào ổn định, các cuộc đàm phán chỉ diễn ra dưới tay đạo diễn của Maduro.
Một vài đề nghị sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế mạnh mẽ để gây áp lực buộc Maduro phải từ chức, cả hai chính quyền Obama và Trump đã thử thông qua nhiều vòng trừng phạt nhằm ngăn chặn chế độ Maduro vay nợ mới và ngăn chặn dòng tài chính của công ty dầu khí nhà nước. Cùng với Canada và EU, Washington đã có các biện pháp chế tài với các quan chức như đóng băng tài sản của họ ở nước ngoài và hạn chế đi lại, nhưng các biện pháp trên là dư thừa, nếu mục tiêu là phá hủy nền kinh tế Venezuela thì không có biện pháp trừng phạt nào phá hủy nhanh bằng chính chế độ đó đang làm, điều tương tự cũng hoàn toàn đúng đối với việc phong tỏa dầu hoả: sản xuất dầu mỏ tự nó đã ở vào tình trạng rơi tự do rồi.
Washington có thể tăng cường chính sách mấu chốt của mình ở một khía cạnh khác là: Cuba cần phải có trách nhiệm hơn trong vấn đề này, có nghĩa là trong mọi quan hệ giữa Washington và Cuba thì Venezuela phải là đối tượng trực tiếp và trung tâm vì mọi cố gắng sẽ không đạt được gì nếu không có sự giúp đỡ từ Cuba. Hoa Kỳ có thể phát triển việc chống tham nhũng mạnh hơn, ngăn chặn không chỉ các quan chức phạm tội nhưng có thể cả việc ngăn chặn các thủ lĩnh và gia đình của họ hưởng những thành quả từ tham nhũng hay buôn bán ma túy và tham ô. Hoa kỳ cũng có thể mở rộng lệnh cấm vũ khí thành toàn cầu, chế độ Maduro phải bị hạn chế với một mục tiêu rõ ràng cho những tay chân trung thành đang tiếp tục nuôi dưỡng chế độ hiểu là việc tiếp tục hỗ trợ chế độ sẽ khiến họ bị cô lập ở Venezuela, nhưng triển vọng thành công của một chiến lược như vậy rất mờ mịt.
Sau một thời gian dài lúng túng các quốc gia Mỹ Latinh khác cuối cùng cũng hiểu rằng sự bất ổn của Venezuela sẽ tràn qua biên giới của họ. Khi làn sóng đỏ thiên tả của những năm đầu thế kỷ thoái trào, các nhà lãnh đạo mới bảo thủ hơn ở Argentina, Brazil, Chile, Colombia và Peru đã cân bằng cán cân trong khu vực chống lại chế độ độc tài Venezuela, nhưng cũng đồng thời thiếu đi sự đồng thuận giữa họ, ngoại giao truyền thống đã không đạt mục đích và thậm chí đã phản tác dụng cũng như không tạo được áp lực gì. Chẳng hạn, năm 2017 các quốc gia Mỹ Latinh đe dọa loại Venezuela ra khỏi Tổ chức các quốc gia châu Mỹ, Venezuela đã phản ứng bằng cách đơn phương rút khỏi tổ chức, cho thấy họ không hề quan tâm đến áp lực ngoại giao truyền thống.
Các láng giềng của Venezuela chứng kiến cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng hơn qua lăng kính từ vấn đề người tị nạn, họ lo lắng ngăn chặn dòng người suy dinh dưỡng chạy trốn khỏi Venezuela và đặt thêm gánh nặng vào các chương trình xã hội của họ. Khi chủ nghĩa dân túy dâng lên phản ứng chống lại dòng người tị nạn Venezuela, một số nước Mỹ Latinh có ý đóng cửa khẩu nhưng lại sợ là một sai lầm chỉ làm tồi tệ thêm cuộc khủng hoảng, trong thực tế các nước Mỹ Latinh đã không biết phải làm gì với Venezuela, điều có thể bây giờ chỉ là chấp nhận người tị nạn, điều này ít nhất cũng giúp giảm bớt nỗi khổ của người dân Venezuela.
Quền lực của dân chúng.
Nên nhớ, chế độ đã bắt rễ sâu và chặt chẽ đến nỗi một sự thay đổi của khuôn mặt lãnh đạo dễ hơn là một sự thay đổi của hệ thống.
- Có thể Maduro sẽ bị thay thế bởi một người kém tài hơn nhưng có khả năng giúp Cuba nắm chắc quyền lực tại Venezuela hơn, kết quả như vậy chỉ có nghĩa là nền thống trị nước ngoài vững chắc hơn, chứ không phải là sự trở lại của nền dân chủ.
- Ngay cả khi các lực lượng đối lập -hay một cuộc tấn công vũ trang do Hoa Kỳ lãnh đạo- bằng cách nào đó đã xoay sở để thay thế Maduro bằng một chính phủ mới hoàn toàn, chương trình nghị sự sẽ rất khó khăn.
Một chế độ kế nhiệm sẽ cần phải giảm vai trò to lớn của quân đội trong tất cả các lĩnh vực của khu vực nhà nước, họ sẽ phải bắt đầu lại việc khôi phục các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục và thực thi pháp luật. Họ sẽ phải xây dựng lại ngành công nghiệp dầu mỏ và kích thích tăng trưởng sản xuất các ngành kinh tế khác. Nhà nước phải thoát khỏi những kẻ buôn ma túy, bọn bất hảo, bọn cướp tài nguyên, những tài phiệt tài chính và những kẻ tống tiền đã bám lấy mọi ngóc ngách trong chính phủ và nó sẽ phải thực hiện tất cả những thay đổi này trong bối cảnh môi trường chính trị độc hại, vô chính phủ và khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng.
Với quy mô của những trở ngại này Venezuela có thể sẽ không thể ổn định được trong thời gian dài sắp tới, thách thức trước mắt đối với dân chúng và các nhà lãnh đạo của họ cũng như đối với cộng đồng quốc tế là ngăn chặn tác động suy thoái của quốc gia. Đối với tất cả những đau khổ mà họ đã trải qua, người dân Venezuela chưa bao giờ ngừng đấu tranh chống lại sự sai trái, tính đến mùa hè này người Venezuela vẫn đang tổ chức hàng trăm cuộc biểu tình mỗi tháng, hầu hết người biểu tình là những người địa phương với ít sự lãnh đạo chính trị, nhưng họ cho thấy rõ ý chí chiến đấu cho chính họ.
Tất cả điều đó có đủ để lái đất nước ra khỏi con đường nghiệt ngã hiện tại không? Chắc là không.
Sự tuyệt vọng đang khiến ngày càng nhiều người Venezuela mơ về một can thiệp quân sự do Trump lãnh đạo, điều này mang đến một ảo mộng mãnh liệt cho một dân tộc đau khổ kéo dài, nhưng điều này chỉ có nghĩa là một ảo vọng không sáng suốt, không là một chiến lược nghiêm túc.
Thay vì một cuộc xâm lược quân sự, hy vọng tốt nhất cho Venezuela là đảm bảo rằng những ngọn lửa phản kháng và bất đồng chính kiến xã hội không bị dập tắt và duy trì được sự chống đối với chế độ độc tài. Cuộc phản kháng này một ngày nào đó có thể đặt nền móng cho sự phục hồi các tổ chức dân sự và dân chủ, chắc chắn không dễ dàng và không thể nhanh chóng. Mặc dù tình hình có vẻ tuyệt vọng, nhưng vực dậy một quốc gia từ bờ vực thất bại chưa bao giờ dễ dàng.
Chuyển ngữ 42.
https://www.foreignaffairs.com/articles/south-america/2018-10-15/venezuelas-suicide
Thứ Ba, 12 tháng 2, 2019
Nanh heo 'Cà tha'
Nhân thấy cô Sáu đang bán nanh heo rừng nhớ chuyện cũ.
Thằng Cê người Tây Ninh, tướng bè bè mang lon hạ sỹ, nó đạo Cao Đài. Trong đơn vị nó là thằng uống được rượu nhất bọn, bọn lính trẻ tụi tôi làm chừng một chai bia quân tiếp vụ là quắc, nó chơi ông già chống gậy -Johnny walker- như không. Nó mới cưới vợ nên lâu lâu được ưu tiên về phép đột xuất nếu đơn vị đi ngang hay hoạt động gần nhà, đơn vị tôi hoạt động lòng vòng vùng ngã ba biên giới lên Trảng Bàng nên Cê cũng có nhiều cơ hội về thăm vợ, nhà nó đâu gần chợ Long Hoa.
Một lần về phép lên hắn khoe mới chuộc được chiếc nanh heo rừng vô Cà tha tận núi Tà Lơn, đeo chiếc nanh là bá bệnh bất xâm, súng đạn không phạm. nó có vẻ tin tưởng lắm, mỗi khi tay mân mê chiếc nanh mắt nhắm như thầm khấn vái, bọn tôi cũng không từng biết qua uy lực của chiếc nanh nên cũng không ai ý kiến gì.
Trong trận đánh mật khu Bời Lời, đụng với bộ đội chính quy bọn tôi bị ghìm cứng không tiến được, thằng Cư nằm xế bên tay phải tôi sau ụ mối, nó vừa nhô người định trườn lên phiá trước thì lãnh nguyên trái B40 vào bụng, tiếng nổ chát chúa văng nó về phía tôi cũng vừa lúc tôi thấy ruột gan nó xổ ra một dề, súng nó văng đâu mất mắt nó trợn lên như không hiểu chuyện gì tôi chỉ kịp chụp lấy chỗ cổ áo nắm chặt chiếc đai ba chạc rồi vừa lết vừa kéo nó ngược ra sau, miệng nó thì chửi thề hai tay thì cố vơ đám ruột lòng thòng ôm nhét lại vào bụng.
Nó sau được tải thương rồi chắc giải ngũ luôn, tôi từ đó không nghe tin gì về nó, chỉ thắc mắc hoài có phải nhờ chiếc nanh heo cà tha mà nó thoát chết không, chứ mình nó lãnh nguyên trái B40 là lớn chuyện chớ! Hí hí
Thằng Cê người Tây Ninh, tướng bè bè mang lon hạ sỹ, nó đạo Cao Đài. Trong đơn vị nó là thằng uống được rượu nhất bọn, bọn lính trẻ tụi tôi làm chừng một chai bia quân tiếp vụ là quắc, nó chơi ông già chống gậy -Johnny walker- như không. Nó mới cưới vợ nên lâu lâu được ưu tiên về phép đột xuất nếu đơn vị đi ngang hay hoạt động gần nhà, đơn vị tôi hoạt động lòng vòng vùng ngã ba biên giới lên Trảng Bàng nên Cê cũng có nhiều cơ hội về thăm vợ, nhà nó đâu gần chợ Long Hoa.
Một lần về phép lên hắn khoe mới chuộc được chiếc nanh heo rừng vô Cà tha tận núi Tà Lơn, đeo chiếc nanh là bá bệnh bất xâm, súng đạn không phạm. nó có vẻ tin tưởng lắm, mỗi khi tay mân mê chiếc nanh mắt nhắm như thầm khấn vái, bọn tôi cũng không từng biết qua uy lực của chiếc nanh nên cũng không ai ý kiến gì.
Trong trận đánh mật khu Bời Lời, đụng với bộ đội chính quy bọn tôi bị ghìm cứng không tiến được, thằng Cư nằm xế bên tay phải tôi sau ụ mối, nó vừa nhô người định trườn lên phiá trước thì lãnh nguyên trái B40 vào bụng, tiếng nổ chát chúa văng nó về phía tôi cũng vừa lúc tôi thấy ruột gan nó xổ ra một dề, súng nó văng đâu mất mắt nó trợn lên như không hiểu chuyện gì tôi chỉ kịp chụp lấy chỗ cổ áo nắm chặt chiếc đai ba chạc rồi vừa lết vừa kéo nó ngược ra sau, miệng nó thì chửi thề hai tay thì cố vơ đám ruột lòng thòng ôm nhét lại vào bụng.
Nó sau được tải thương rồi chắc giải ngũ luôn, tôi từ đó không nghe tin gì về nó, chỉ thắc mắc hoài có phải nhờ chiếc nanh heo cà tha mà nó thoát chết không, chứ mình nó lãnh nguyên trái B40 là lớn chuyện chớ! Hí hí
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)