Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014

Trận Đức Lập 1968. Phần 1/4

Bắt đầu là những tiếng gầm rung trầm trầm trong đêm, và trận chiến xảy ra sau đó đã thay đổi cuộc sống cuả 12 chiến binh biệt kích mãi mãi - Đức Lập.

PHẦN 1

Đêm nóng, ẩm ướt, và đen kịt như trong hũ nút. Đó là khoảng 0100 giờ đêm, khi tiếng ầm ầm từ xa đánh thức chuẩn úy William Harp. Harp chỉ huy lực lượng đặc biệt A-Team, đặt tại căn cứ cuả Lực lượng dân sự chiến đấu (gọi là A-239) tại Đức Lập. Một nửa quân số cuả nhóm ông đang làm nhiệm vụ, trong khi đó phần còn lại đang nghỉ ngơi trong những lô cốt được gia cố chắc chắn nằm sâu bên trong khu trại trên đỉnh đồi của họ. Thượng sỹ nhất Ted Boody một trung đội trưởng đang viết một lá thư cho vợ, Trung sỹ âm thoại viên Mike Dooley, một tài năng vẽ tranh biếm họa đang vẽ những hình ảnh để gửi cho đứa con trai năm tuổi của mình ở California. Các chiến binh khác thì hoặc chơi bài hoặc đọc sách. Họ cũng đồng thời nghe tiếng gầm rùng rùng, giống như tiếng sấm xa xôi, mọi người đều biết là một vụ pháo kích đang diễn ra ở đâu đó trong khoảng cách xa xa. Mở cánh cửa thép của căn hầm được gia cố chắc chắn của họ, những người chiến binh quan sát bầu trời không trăng và thấy nhấp nháy ánh sáng xẹt về phía tây, phía trụ sở tổng hành dinh. Đó là thứ Sáu ngày 23/8/1968, và đó là những tín hiệu khởi đầu của trận tấn công Đức Lập.  


        Hình chụp ngày đầu cuộc chiến với hầu hết những tên người trong câu chuyện (photo: James Alward)

"Mọi người sẵn sàng ... tập họp!" Harp hét lên... Trung sỹ Don Childs, trung sỹ Jim Alward, Trung sỹ Daniel Hall, là những chiến binh của Biệt đội 403 tác chiến đặc biệt thuộc ASA (quân báo), trung sỹ y tá biệt kích  Daniel Shepherd là một trong số những người đang ngủ khi báo động vang lên. Những người chiến binh mặc gấp quần áo và nhanh chóng tập họp cùng phần còn lại của nhóm mũ nồi xanh trong hầm. Một báo cáo từ tổng hành dinh Đức Lập cho biết trụ sở bị tấn công nặng nề và cần viện binh ngay tức khắc. Trung sĩ tiểu đội trưởng Boody lập tức liên lạc đến tổng hành dinh cuả B-Team đặt tại Buôn Ma Thuột để thông báo cho họ về cuộc tấn công, và phần còn lại của toàn đội lập tức tản ra những vị trí phòng thủ được giao.

Jim Alward cúi thấp đầu trong trong cái hố súng cối 81ly và chú ý nhìn ra ngoài bóng tối dày đặc của đêm đen, trong lòng tự hỏi những chiến binh biệt kích người Thượng của ông hiện đã ở đúng vị trí phòng thủ chưa! Thượng sỹ Howard Blair, một chuyên gia về vũ khí hạng nhẹ và là một trong những chiến binh kỳ cựu cuả toán biệt kích, đã được chỉ định vào cái hố cối 81ly thứ nhì. "Shep" Shepherd, y tá biệt kích đang phụ giúp anh ta, và thượng sỹ Harold Kline, chuyên viên vô tuyến đang được biệt phái từ biệt đội B-57 (Dự án Gamma) tại Nha Trang, được phân công vị trí khẩu cối 81ly thứ ba, quỳ bên cạnh anhDon Childs, người mà toàn đội gọi là "short-timer" (hết giờ) là người chỉ có sáu ngày còn lại ở chiến trường VN trước khi quay trở về Mỹ.

Đột nhiên, đạn cối và đạn B-40 đồng loạt phát nổ dữ dội bên trong hàng rào kẽm gai bao quanh trại. Những âm thanh của vũ khí tự động súng cá nhân rộ lên như muốn cắt nhỏ không khí ban đêm, các chiến binh  trong nhóm lực lượng đặc biệt có thể nhìn thấy những tia lửa phát ra súng của đối phương khoảng cách xa xa. Hai biệt kích người Thượng leo vào hố số một bên cạnh Alward và bắt đầu chuẩn bị thao tác tiếp đạn súng cối. Chắc chắn đêm nay sẽ là một đêm dài!


                                                         Đại bác 57 ly không giật tại A-239

Childs Kline tác xạ liên tục những loạt đạn chống biển người dọc theo phía bắc và phía đông, trong khi Daniel Hall và trung sĩ Roland Vas bắn lên trời những trái cối hoả châu nhằm chiếu sáng cho các binh sĩ người Thượng đang chiếm giữ bảo vệ các chiến hào chung quanh vành đai của trại. Mike Dooley vẫn ở vị trí ụ súng của anh tác xạ khẩu đại bác 57 ly không giựt. Áp lực tấn công ngày càng tăng, hoả tiễn B-40 phát nổ chung quanh trại mỗi hai phút. Các ổ súng cối 81mm đã bắn khoảng hai mươi đến ba mươi viên đạn mỗi phút và tiếp tục bắn cho đến khi nòng súng của họ quá nóng, các chiến binh nhanh chóng dội nước làm mát vũ khí của họ và tiếp tục bắn và cứ thế, được lặp đi lặp lại trong hơn hai giờ.

Một chiếc máy bay AC-47 "ma quái" có mặt ngay từ những giờ đầu cuộc chiến. Ba khẩu minigun của máy bay khạc ra với tốc độ 6.000 viên đạn một phút và trong mỗi cú xiết cò súng dài 3 giây, nó có thể cắm xuống đất cứ mỗi 6 feet một viên đạntrải rộng trên một diện tích năm mươi hai yard. Quân đội Bắc Việt đều ​​khiếp sợ vũ khí này lý do rất chính đáng, chiếc "ma quái" (Spooky) có thể một xoá sổ một đơn vị lớn chỉ trong một đợt càn quét bằng minigun.

   
                                                         Spooky, AC-47 (U.S.A.F.)                                    

Cùng với ánh sáng bình minh buổi sáng, máy bay không quân chiến thuật đến hiện trường và tấn công các vị trí của đối phương. Khoảng 0930, Jim Alward đang đứng bên ngoài căn hầm theo dõi đội máy bay phản lực thực hiện nhiệm vụ và thầm ngưỡng mộ kỹ thuật chuyên môn của các phi công. Trong một pha tấn công mặt đất, anh nhìn thấy một chiếc F-100 "Super Sabre" xà xuống rất thấp, và sau đó sửng sốt nhìn quầng lửa bùng lên sau đuôi của nó đồng thời một chấm đen bật ra, bung ra một cái dù. Chiếc máy bay tiếp tục trên đà lao xuống của mình, bùng nổ dữ dội trong một quả cầu lửa khi nó chạm đất tại ngọn đồi ở phía bắc. Viên phi công nhẩy dù ra một cách an toàn, nhưng chiếc dù đang rớt xuống ở khoảng cách nguy hiểm rất gần lãnh thổ đối phương kiểm soát gần khu làng. Không có thời gian để mất ở đây! 


Chộp lấy khẩu carbine của mình, Mike Dooley nhảy vào một chiếc xe jeep phóng xuống đồi về phía cửa chính. Nhóm hướng dẫn phi hành (FAC) đã liên lạc để yêu cầu trực thăng vũ trang bảo vệ, sau đó Boody, Alward, Hall và Childs đã cùng với các chiến binh khác trong một chiếc xe jeep thứ hai và một chiếc xe tải nhẹ khác cùng tăng tốc đuổi theo xe cuả Dooley. Shepherd khi đó đang ở trong bệnh xá gần cổng phía trước khi Dooley ào đến cùng với một đám mây bụi. Dooley đã la lớn để các quân cảnh gác cổng di chuyển các dây concertina đã được xâu thành chuỗi ngang qua con đường trước cổng, và họ vội vã chạy đến để giúp anh. Khi Shepherd biết được rằng một chiếc máy bay đã bị bắn rơi, anh cũng chộp lấy vũ khí của mình và túi xách dụng cụ y tế và nhảy vào chiếc xe jeep cùng với Dooley. Hai chiếc xe sau đã bắt kịp, sau khi tải thêm một nửa tá lính biệt kích ở phía sau của xe tải, đoàn xe lộn xộn những chiến binh phóng ra cửa xuống con đường hướng tới khu vực tiếp đất của người phi công lâm nạn. Cho đến giờ, không hề có phát súng nào cả!

Khi đoàn xe ngừng hẳn về phiá bên kia ngôi làng, Dooley Childs nhảy ra và chạy băng băng trên cánh đồng trống về phiá chiếc vẫn còn cuồn cuộn. Những chiến binh khác bảo vệ hai bên sườn của họ và căng mắt theo dõi tung tích quân địch. Đạn súng nhỏ và AK-47 bắt đầu rít phần phật qua những thân cây ở các góc của cánh đồng. Địch quân đang nhanh chóng tiến đến, mục đích tìm bắt viên phi công F-100 mà họ vừa mới bắn rớt. Từ trên đỉnh đồi khu căn cứ, các chiến binh quan sát có thể nhìn thấy những người lính Bắc Việt đang di chuyển từ phía tây băng ngang qua để cắt đứt con đường trở lại của nhóm chiến binh cứu hộ.

Trong khi đó, các chiến binh cứu hộ không tìm thấy người phi công mà họ đang cố gắng giải cứu. Mọi người tản ra chung quanh để tìm kiếm, cuối cùng Hall và Shepherd tìm thấy người phi công ẩn trong một bụi rậm ở bìa rừng. Người phi công sau đó thú nhận là anh đã gần như bắn Dooley khi anh ta chạy xuống đường mòn, lo sợ là địch quân. Nhưng điều quan trọng bây giờ với mọi người là trở về căn cứ. Tiếng đạn phóng rít qua tàng cây rộ lên như tiếng đàn ong vò vẽ trong cơn tức giận, càng ngày càng tăng lên. 


                    Không quân chiến thuật yểm trợ tại Đức Lập, ngày 23/08/1968 (photo: James Alward)
  
Đúng tại thời điểm đó, hai chiếc trực thăng vũ trang xuất hiện trên khu vực. Hiện lên như hai con chuồn chuồn khổng lồ trên bầu trời trong trẻo, với những nhịp súng minigunscắt qua những tán lá hình thành một bức tường thép xung quanh nhóm nhỏ những người lính biệt kích. Những người chiến binh vội vã phóng lên con đường hẹp, vừa kéo vừa đẩy người phi công trẻ lên xe của họ, và với hai chiếc gunships bắn bảo vệ hai bên, họ tăng hết tốc lực trở lại khu trại kiên cố tương đối an toàn của họ.

Khi các trại Lực Lượng Đặc Biệt tại Đức Lập bị tấn công, nó phải hứng chịu trận tấn công với quân số thiếu hụt. Thời điểm đó có mười hai lính mũ nồi xanh (Green Berets), bao gồm ba chuyên viên kiểm thính Morse thuộc ASA, Hill, Alward, Childs. Sáu lính Lực lượng Đặc biệt (Lực lượng đặc biệt/VNCH), một trung đội Trinh sát người Thượng với ba mươi lăm chiến binh, mười bảy người Thượng quân cảnh làm nhiệm vụ  bảo vệ cổng chính, và 220 người Thượng thuộc Dân sự chiến đấu gồm: 163 người thuộc đại đội 1 và 2 đóng trên đồi chính và 57 người Thượng thuộc đại đội 3 và 4 đóng trên ngọn đồi nhỏ ở phía bắc của trại. Đó là tổng cộng 290 binh sĩ sẵn sàng cho phòng thủ. Phần còn lại của lực lượng, bao gồm hầu hết nhân sự cuả đại đội 3 và 4 cùng các các cố vấn mũ xanh của họ đang làm nhiệm vụ tuần tra thường xuyên dọc theo biên giới Campuchia. Hầu hết các người Thượng đều có gia đình sống chung với họ bên trong các hang động hầm công sự đã được đào xen kẽ trong các đường giao thông hào bảo vệ đồi.

Toán lực lượng đặc biệt Mỹ sẽ không có cách nào để biết rằng trước rạng đông, căn cứ A-239 và 290 chiến binh bảo vệ nó sẽ bị tấn công bao vây, không phải do một đại đội Việt Cộng (tức MTGPMN) hay Bắc Việt, nhưng do trung đoàn Hồng Lĩnh (95C) bộ đội Bắc Việt. Với quân số khoảng 1,500 tới 2000 lính bộ binh được đào tạo kỹ lưỡng, và họ được hỗ trợ bởi các đơn vị của Trung Đoàn 320 và Tiểu đoàn 8 thuộc Trung Đoàn 66, tất cả thuộc quân số của Sư Đoàn 1 CSBV. Với các đơn vị hỗ trợ khác nhau, kết hợp lực lượng địch trong vùng Đức Lập đạt khoảng 4.000 quân chiến đấu giàu kinh nghiệm.

Còn tiếp...

Tiếng Việt 42,
Based on Chapter 20, "Unlikely Warriors: The Army Security Agency's Secret War in Vietnam 1961-1973" by Lonnie M. Long and Gary B. Blackburn.


1 nhận xét: