Nhạc phẩm Hallelujah cuả Leonard Cohen gồm 2 phần, phần đầu tác giả dùng những điển tích trong cựu ước, dẫn nhập chúng ta đến với từ Hallelujah. Phần 2, mô tả về những rên rỉ thăng hoa, cả ấm ức với đổ vỡ, trải nghiệm của một người đã đi qua những thăng trầm trong tình yêu. Có rất nhiều giải thích và biến tấu của lời hát, sau đây là những cóp nhặt riêng, chỉ phần nào về nhạc phẩm này.
Trước tiên, hãy nhẩm lại chút kiến thức Thiên Chúa Giáo,
-David, vị vua Do thái trong cựu ước, được nhắc đến trong nhạc phẩm này ám chỉ đến mặc cảm tội lỗi trong tình yêu. Trong một lần thấy Bathsheba tắm trên sân thượng, ông mê nàng. Ông đã vì yêu, chiếm lĩnh Bathsheba, mà tìm cách đẩy Uriah chồng nàng ra chiến tuyến để y bị giết chết, sau đã cưới nàng dưới bao lời trách móc.
-Samson và Delilah, ám thị của sự lừa dối, mụ mị trong tình yêu, Samson một lãnh tụ Do thái đã bị nàng Delilah dùng sắc đẹp, lời ngon ngọt lừa chàng mê mẩn trong mối tình này, nói ra bí mật sức mạnh và bị nàng lừa cắt trọc đầu mất đi mái tóc-cũng là sức mạnh của mình, để dẫn đến cái chết mù loà trong xiềng xích, câu chuyện bi thương này cũng trong cựu ước.
-Chim bồ câu bay lượn, được dùng cách ám thị trong kinh thánh để chỉ về các thiên sứ, khi xuất hiện luôn mang đến bình an và hoan lạc cho thế nhân, ở đây là dấu chỉ về sự thăng hoa của tình yêu, sự thánh thiện, hoàn hảo của tình yêu.
Hallelujah, nghĩa là "vinh danh thiên chúa" nhưng trong nhạc phẩm Hallelujah không mang nghĩa này, đây có thể hiểu là những tiếng rên rỉ sung sướng lên đỉnh khi làm tình, cùng trong bài này, tác giả sử dụng "broken Hallelujah" như lời than vãn, ray rứt của cuộc tình không trọn vẹn, tội lỗi, dối lừa! Hallelujah lúc này chỉ là những nức nở nghẹn ngào, không còn là tiếng hoan ca tình yêu nữa.
Verse 1:
Now I've heard there was a secret chord
That David played and it pleased the Lord
But you don't really care for music, do you?
It goes like this
The fourth, the fifth, the minor fall, the major lift
The baffled king composing Hallelujah...
Bạn có thể nghe về một hội đồng ca nào đó
Gồm cả David, dâng lên hài lòng Thiên chúa
Nhưng chắc là bạn chẳng quan tâm đến âm nhạc, nhỉ?
Chuyện như vầy,
Những đoạn 4, đoạn 5, hợp âm giáng, hợp âm thăng...
Có ông vua bối rối sáng tác điệu Hallelujah
Sơ tả vua David, với những công trạng làm vui lòng thượng đế, tác giả dẫn chuyện đưa chúng ta đến với vị vua Do thái, với nhóm thờ phụng, người đã sáng tác ra lời hoan ca ngợi ca Thiên Chúa Hallelujah
Verse 2:
Your faith was strong but you needed proof
You saw her bathing on the roof
Her beauty and the moonlight overthrew you
She tied you to a kitchen chair
She broke your throne, and she cut your hair
And from your lips she drew the Hallelujah...
Niềm tin của ta vững chắc nhưng ta cần minh chứng
Nhưng, ta chỉ một lần thấy nàng tắm trên sân thượng
Sắc đẹp nàng cùng ánh trăng đã quật ngã ta.
Nàng cột ta vào chiếc ghế ở bàn ăn
Bẻ gẫy vương miện, cạo đầu ta
Và môi trong môi ta, nàng gào lên Hallelujah
Ba câu đầu này, dẫn ta vào sâu hơn mô tả cú sét ái tình của David, Với Thượng đế ông phải chứng minh về lòng tin cùng ngài, nhưng khi nhìn thấy tình yêu của mình lần đầu tắm trần truồng trên sân thượng dưới ánh trăng, sắc đẹp cộng với ánh trăng ma mị đã xô ngã người anh hùng của cựu ước chìm vào tội lỗi. Hallelujah ở đây là tiếng rên nhục dục chìm trong tình yêu, hoan lạc tội lỗi Hallelujah.
Nửa sau là ẩn dụ về sự dại dột ngây thơ của Samson, khi một đầu lĩnh Do thái sa vào lưới tình, người tình đã phản bội, trong khi cắt mất tóc-sức mạnh của chàng ta, nàng vẫn môi trong môi và rên rỉ lên đỉnh cùng người tình chắc chắn sẽ chết trong tay nàng! Hallelujah với Delilah là tiếng gào sung sướng trong tình yêu dối lừa.
Hallelujah trong đoạn này là định nghĩa của sự tội lỗi, tan vỡ, tuyệt vọng trong tình yêu, gồm có cả bóng dáng của vui mừng, hoan lạc. The 'black' Hallelujah.
Verse 3:
Now maybe there's a God of love
As for me all I ever learned from love
Is how to shoot someone who outdrew you
But it's not a crime that you're here tonight
It's not some Pilgrim who claims to have seen the light, no
It's a cold and it's a very broken Hallelujah...
Có thật chăng một vị thần tình yêu
Sao những gì anh học được ở cuộc tình này
Là chiến đấu với người để giành giựt em
Nhưng đêm nay sao em trốn chạy
Có chăng ai đó thấy ánh hào quang mà ca hát,
Không, chỉ là những đơn côi cùng với đắng cay Hallelujah
Bắt đầu từ đây, tác giả viết về cuộc tình của riêng "mình", sau khi định nghĩa Hallelujah theo cựu ước, giờ là Những trải nghiệm trong đời thường, có thật tồn tại một thần tình yêu? Sao ta phải giành giật mới được em? và kết cục em cũng bỏ ta, chỉ còn lại là lạnh lẽo cô đơn tăm tối, lúc này ta cũng thấy Hallelujah-không là hoan ca-mà là một broken Hallelujah, đẫm đắng cay. Hallelujah ở đây là những tức tưởi cay đắng cho cuộc tình vừa mất!
"It's not some Pilgrim who claims to have seen the light" là ẩn dụ về đêm Giáng sinh, khi Chúa Hài đồng sinh ra, thiên thần hoan ca Hallelujah.
Verse 4:
Oh people I have been here before
I know this room and I've walked this floor
You see, I used to live alone before I knew you
And I've seen your flag on the marble arch
But listen, Love Love is not a victory march, no
It's a cold and it's a broken Hallelujah...
Người ơi, ta đã từng ở đây nhé
Ta biết căn phòng này, ta đã từng đếm bước nơi đây
Em biết không, ta đã từng sống cô đơn trước khi biết em
Ta đã chinh phục em và chiếm đoạt
Nhưng, yêu em không là cuộc diễn hành chiến thắng,
Không, mà chỉ là những cay đắng, đơn côi Hallelujah
Lời nói thầm cùng với người tình đã rời xa, cuộc tình với em, những chinh phục-chiếm đoạt-chiến thắng-mất mát, giờ chỉ còn lại những đơn côi cay đắng Hallelujah
"the flag on the marble arch" là ẩn dụ cho chiến thắng, tịch thu cờ địch vất xuống nền đền thờ.
Verse 5:
There was a time you let me know
What's really going on below
But now you never even show it to me, do you?
I remember when I moved in you
And the holy dove she was moving too
And every single breath we drew was Hallelujah...
Đã có thời em luôn thủ thỉ
Những tâm sự từ sâu trong đáy lòng em
Nhưng sao nay em câm nín, em ơi?
Anh vẫn nhớ những cơn hoan giao hoang hoải
Cánh thiên thần hạnh phúc chao nghiêng
Từng hơi thở dốc, ta cùng gào rú Hallelujah
Những nhung nhớ về người yêu, còn đâu những khi luôn ríu rít tâm sự những điều sâu kín trong lòng, sao giờ này em câm nín coi anh như người lạ? Em còn nhớ những cơn giao hoan chúng mình cùng gào lên hoan lạc, thánh thiện biết bao, hạnh phúc tràn đầy Hallelujah.
Verse 6:
I've done my best, I know it wasn't much
I couldn't feel so I learned to touch
I've told the truth, I didn't come here just to fool you
And even though it all went wrong
I'll stand right here before the Lord of Song
With nothing, nothing on my tongue but Hallelujah...
Anh đã cố hết sức, dẫu biết rằng em đổi dạ
Thử mọi cách làm thay đổi lòng em
Thật, anh đến gặp em lòng không gian dối
Em ơi cho dù tình ta tan vỡ
Trước mặt thượng đế toàn năng
Dù trống vắng đơn côi, anh vẫn rên lên Hallelujah
Anh đã cố hết sức nhưng vẫn không giữ được em, anh đến đây không tìm cách dối lừa chỉ muốn em biết rằng, trước Thượng đế trên cao dù lòng anh trống vắng, anh vẫn cứ ca lên Hallelujah để nhớ mãi về cuộc tình em đã trao tặng!
42, Hí hí
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét