Khi VS vú to mông mẩy hỏi, cho dù là câu hỏi hóc búa cỡ nào thì người đàn ông chân chính phải trả lời bằng cách nhẹ nhàng nhất có thể, hí hí. Đây là bài lược dịch từ một trang viết về kiến thức y tế và đây là chút kiến thức căn bản, đơn giản về X-quang.
Phóng xạ hàng ngày:
Mọi người trên hành tinh đều bị phơi nhiễm một lượng phóng xạ nhất định khi họ đi lại dưới ánh mặt trời trong cuộc sống hàng ngày. Các chất phóng xạ được tìm thấy tự nhiên trong không khí, đất, nước, đá và thực vật chung quanh ta.
X-quang có thể gây đột biến DNA của chúng ta, và do đó nó có thể dẫn đến ung thư sau này. Vì lý do này, tia X được phân loại là chất gây ung thư bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và cả chính phủ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, lợi ích của công nghệ sử dụng tia X vượt xa những hậu quả tiêu cực tiềm tàng của việc sử dụng chúng, điển hình là việc bị nhiễm phóng xạ trong chụp X-quang.
Người ta ước tính rằng 0.4% bệnh ung thư ở Mỹ là có liên quan đến "Chụp cắt lớp CT". Một số nhà khoa học cho rằng mức này sẽ tăng lên song song với việc sử dụng chụp cắt lớp-CT trong các chẩn đoán y tế. Ít nhất hiện có khoảng 62 triệu lần chụp CT được thực hiện ở Mỹ vào năm 2007.
Theo một nghiên cứu nếu nhiễm tia X vì chụp X-quang bình thường cho tới tuổi 75, thì khả năng bị ung thư sẽ tăng thêm cỡ 0,6%-1,8% . Nói chính xác, rủi ro là quá nhỏ so với lợi ích của chụp hình X-quang trong y tế.
Mỗi kiểu chụp X-quang có một nguy cơ khác nhau liên quan đến độ phơi nhiễm, tùy thuộc vào loại tia X và phần của cơ thể được chụp ảnh. Danh sách dưới đây cho thấy một số các kỹ thuật chụp và so sánh liều phóng xạ khi chụp với mức phóng xạ bình thường mà tất cả chúng ta vẫn gặp phải trong cuộc sống hàng ngày.
Chụp X-quang ngực
Tương đương với 2,4 ngày phóng xạ tự nhiên.
Chụp Xương sọ
Tương đương với 12 ngày phóng xạ tự nhiên.
Chụp cột sống thắt lưng
Tương đương với 182 ngày phóng xạ tự nhiên.
Tiêm tĩnh mạch
Tương đương với 1 năm phóng xạ tự nhiên.
Chụp cắt lớp Đầu
Tương đương 243 ngày phóng xạ tự nhiên.
Chụp cắt lớp bụng
Tương đương với 2,7 năm phóng xạ tự nhiên.
Những con số phóng xạ này tính toán cho người lớn, trẻ em nhạy cảm với tia X hơn.
Tóm lại, chụp X-quang bình thường như chụp hình phổi, không có gì là ghê gớm cả, chỉ bằng đi Vũng tàu chơi tắm biển 3 ngày, độ phơi nhiễm phóng xạ tương đương.
Chuyển ngữ từ: https://www.medicalnewstoday.com/articles/219970.php
Thứ Tư, 27 tháng 12, 2017
Thứ Sáu, 22 tháng 12, 2017
Người Mỹ trả lời UN.
Nước Mỹ của chúng chụy sẽ nhớ ngày này, ngày mà nước Mỹ bị đưa ra để bọn UN đâm chọt về một quyết định chủ quyền riêng của quốc gia chụy với một nước khác. Chúng chụy sẽ ghi nhớ cho đến khi nào chúng chụy sẽ được nhắc đến như là nước bỏ tiền ra nhiều nhất để nuôi cái bọn Liên hiệp quốc (chó má) này, và chúng chụy cũng sẽ ghi nhớ khi rất nhiều các bọn chúng mày lúc nhờ cậy đến chúng chụy-như chúng mày vẫn thường làm-để chi thêm tiền, cũng như nhờ vào sự ảnh hưởng của chúng chụy để can thiệp cho chúng mài.
Nước Mỹ của chụy sẽ đặt đại sứ quán tại Jerusalem, đó là điều nhân dân Mỹ muốn và đó là điều đúng đắn phải làm, không một phiếu bầu nào ở đây ảnh hưởng đến điều này cả, nhưng các phiếu bầu này sẽ cho nước Mỹ của chụy cái nhìn khác về bọn Liên hiệp quốc chúng mài và cái nhìn riêng về những nước mà đã ra mặt chống đối lại Mỹ tại đây.
Và cuộc bỏ phiếu này sẽ được ghi nhớ (đm chúng mài nhớ đấy!) Cám ơn.
Nước Mỹ của chụy sẽ đặt đại sứ quán tại Jerusalem, đó là điều nhân dân Mỹ muốn và đó là điều đúng đắn phải làm, không một phiếu bầu nào ở đây ảnh hưởng đến điều này cả, nhưng các phiếu bầu này sẽ cho nước Mỹ của chụy cái nhìn khác về bọn Liên hiệp quốc chúng mài và cái nhìn riêng về những nước mà đã ra mặt chống đối lại Mỹ tại đây.
Và cuộc bỏ phiếu này sẽ được ghi nhớ (đm chúng mài nhớ đấy!) Cám ơn.
Thứ Hai, 20 tháng 11, 2017
Cô giáo.
Cây số 7 Phú bài, 1960
Năm đó lớp tôi học lớp 5 thì phải (thời đệ nhất Cộng hoà, gọi tên lớp ngược, lớp 5 là lớp 1 bây giờ), cô giáo lớp tôi tên Thủy.
Cô trẻ nhất trường, hình như chỉ mới 17 tuổi, tóc dài chấm gót chân, cô người nhỏ nhắn nhà tuốt trong vùng ruộng sâu trong làng nên cô trọ ở nhà tôi. Nói chung cô khác hẳn bọn gái làng vì học hành nên thân hình thon thả, không ruộng nương nên da trắng và trên hết là cô biết điệu.
Cô ở trọ nhà tôi từ thứ hai cho đến chiều thứ sáu thì về nhà mẹ sâu trong ruộng, một đôi lần cô cho tôi về cùng, những trái sim tím ngọt lừ cuống họng vẫn còn vương đâu đó sau hơn nửa thế kỷ trong tôi, những đêm ngủ cô ôm trong lòng không mộng mị. Những lần cô gội đầu, tôi được vinh đự múc nước đưa cô, vì cô phải đứng trên chiếc ghế đẩu để gội cho tóc không chấm đất.
Vinh dự nhất thời mẫu giáo là được ôm đống vở chạy theo sau cô vào lớp, từ nhà tôi đến trường cách khoảng chừng vài chục căn nhà với con đường nho nhỏ trải đá dăm, mỗi khi cô đi ngang bị bọn trai làng chọc ghẹo cô ngoáy đít đi mắt không thèm liếc, trong ý nghĩ non nớt tôi chỉ ước ngày nào lớn lên đuổi hết bỏn đi cho cô không phiền lòng!
Gia đình tôi vào Nam vài năm sau đó, tôi cũng không nhớ nổi cô đã ra khỏi ký ức tôi từ lúc nào, chỉ còn lưu lại mãi mơ hồ hình ảnh cô, chiếc lưng eo thon trong áo dài trắng với suối tóc dài và mơ hồ vị ngọt của sim tím cả không gian.
Nhớ cô! 42.
Năm đó lớp tôi học lớp 5 thì phải (thời đệ nhất Cộng hoà, gọi tên lớp ngược, lớp 5 là lớp 1 bây giờ), cô giáo lớp tôi tên Thủy.
Cô trẻ nhất trường, hình như chỉ mới 17 tuổi, tóc dài chấm gót chân, cô người nhỏ nhắn nhà tuốt trong vùng ruộng sâu trong làng nên cô trọ ở nhà tôi. Nói chung cô khác hẳn bọn gái làng vì học hành nên thân hình thon thả, không ruộng nương nên da trắng và trên hết là cô biết điệu.
Cô ở trọ nhà tôi từ thứ hai cho đến chiều thứ sáu thì về nhà mẹ sâu trong ruộng, một đôi lần cô cho tôi về cùng, những trái sim tím ngọt lừ cuống họng vẫn còn vương đâu đó sau hơn nửa thế kỷ trong tôi, những đêm ngủ cô ôm trong lòng không mộng mị. Những lần cô gội đầu, tôi được vinh đự múc nước đưa cô, vì cô phải đứng trên chiếc ghế đẩu để gội cho tóc không chấm đất.
Vinh dự nhất thời mẫu giáo là được ôm đống vở chạy theo sau cô vào lớp, từ nhà tôi đến trường cách khoảng chừng vài chục căn nhà với con đường nho nhỏ trải đá dăm, mỗi khi cô đi ngang bị bọn trai làng chọc ghẹo cô ngoáy đít đi mắt không thèm liếc, trong ý nghĩ non nớt tôi chỉ ước ngày nào lớn lên đuổi hết bỏn đi cho cô không phiền lòng!
Gia đình tôi vào Nam vài năm sau đó, tôi cũng không nhớ nổi cô đã ra khỏi ký ức tôi từ lúc nào, chỉ còn lưu lại mãi mơ hồ hình ảnh cô, chiếc lưng eo thon trong áo dài trắng với suối tóc dài và mơ hồ vị ngọt của sim tím cả không gian.
Nhớ cô! 42.
Thứ Ba, 24 tháng 10, 2017
Điệp vụ trong bóng tối, chiến dịch K.
Chiến dịch K của Nhật, trận tấn công thứ II vào Trân châu cảng, thất bại bị lãng quên.
Mọi người đọc lịch sử, ai cũng biết về trận tấn công Trân châu cảng (Pearl Harbor) do Hải quân Hoàng gia Nhật thực hiện, nhưng vì những báo cáo về nó được giữ bí mật đến tận 1962 nên hầu như ít ai biết về trận tấn công thứ nhì cũng nhắm cùng mục tiêu là Trân châu cảng, cũng do Hải quân Nhật thực hiện không lâu sau trận tấn công lần thứ nhất.
Trận tấn công này mang biệt danh "chiến dịch K" do Hải quân Nhật thực hiện, một chiến dịch không kích đánh bom vào căn cứ Hải quân Mỹ tại Pearl Harbor lần thứ nhì.
Mục tiêu của chiến dịch K là đánh phá chương trình cứu hộ và phục hồi hạm đội của Mỹ đã bị tấn công trước đó, trong trận đánh trước, các mục tiêu như khu kho xăng dầu bên cạnh phi trường hải quân Pearl Harbor và khu cầu cảng tân trang sửa chữa của Hải quân đã thoát không bị tấn công phá hủy. Mục tiêu chính của Chiến dịch K là ngăn chặn công tác sửa chữa, trục vớt các chiến hạm của Mỹ đang được triển khai hết công suất, nhằm phá hủy hoàn toàn hạm đội Mỹ. Đây được biết là một phi vụ thả bom đường xa nhất trong thế chiến thứ hai mà không có chiến đấu cơ bay kèm bảo vệ.
Chiến dịch K được tung ra vào ngày 04/03/1942, là đêm trăng tròn sáng nhất. Các thủy phi cơ Kawanishi H8K với biệt danh "Emily", mỗi chiếc máy bay khổng lồ này với trọng lượng cất cánh 32,500 kg (71,650 lbs) với sải cánh 38 m (124 ft). Máy bay được trang bị bốn động cơ 1,850 mã lực, tốc độ tối đa khoảng 475 km/giờ với phi hành đoàn 10 người.
Phe đồng minh đặt tên cho những chiếc thủy phi cơ này hỗn danh "con Nhím bay", chiếc phi cơ với trang bị hoả lực gồm 10 họng súng đại liên, khoảng cũng cỡ số đó súng đại bác 20 ly. Chiếc thủy phi cơ H8K này có khả năng thi hành những phi vụ dài 24 tiếng và có thể mang theo mỗi chiếc 8 trái bom loại 550 lbs mỗi trái.
Kế hoạch ban đầu của bộ chỉ huy tối cao Hải quân Nhật là sử dụng 5 chiếc thủy phi cơ H8K bay tới French Frigate Shoals -là một đảo san hô lớn nhất nằm phiá Tây Bắc của Hawaii- tại đây tàu ngầm sẽ bơm tiếp nhiên liệu cho các máy bay để có thể bay đến Pearl Harbor. Nếu trận tấn công đầu tiên thành công, sẽ tiếp tục các đợt tấn công kế tiếp cho đến khi hoàn toàn phá hủy mục tiêu.
Khi cuộc tấn công gần kề, lịch sử cũng lặp lại hơn một lần nữa, cũng giống như trong trận tấn công vào Trân châu cảng đầu tiên đã xảy ra ngày 7/12, tình báo Mỹ cũng đã thu được manh mối về một điều gì đó lớn sắp xảy ra với Hả̉i quân Nhật, nhưng thật đáng kinh ngạc, các tin tình báo một lần nữa bị bỏ qua về chiến dịch này.
Khó khăn-thất bại.
Trở ngại đầu tiên là vào ngày tiến hành chiến dịch, chỉ có 2 chiếc máy bay sẵng sàng chiến đấu, chiếc thứ 1 do Thiếu tá phi công Hisao Hashizume, chỉ huy chiến dịch và chiếc thứ 2 do Hải quân Thiếu úy Shosuke Sasao lái. Chiến dịch bắt đầu tại Wojte Atoll (Quần đảo Marshall), mỗi chiếc máy bay đã được trang bị bốn quả bom loại 250 kg. Từ Wojte, các thủy phi cơ bay 3.100 km tới French Frigate Shoals, sau khi tiếp nhiên liệu ở đây, những chiếc máy bay cất cánh trực chỉ Trân Châu Cảng cách đó 900 km. Song song trong chiến dịch cùng với các thủy phi cơ là một tàu ngầm, chiếc I-23 nhận nhiệm vụ sẽ tiến vào vùng oanh tạc trước để hướng dẫn các thủy phi cơ tấn công mục tiêu.
Trước đó, Hải quân Nhật đã giải được mật mã của quân Mỹ tại khu vực Hawaii dùng để thông báo tin tức khí tượng trong vùng, nhưng không lâu trước trận tấn công, phía Mỹ đã đổi mật mã nên Hải quân nhật hoàn toàn không biết tin về khí tượng trong vùng mục tiêu.
Mục tiêu tấn công là quân cảng, xưởng sửa chữa "Ten ten dock", cái tên của cảng được gọi theo chiều dài của cầu cảng do nó dài 1,010 ft (310 m), toàn bộ những chiến hạm cần sửa chữa đang nằm tại đây, mốc thời gian của chiến dịch dội bom được ấn định khoảng nửa đêm. Cản trở lớn nhất của chiến dịch là thời tiết bất lợi tại Trân châu cảng, từ việc thời tiết khắc nghiệt này đã dẫn đến hàng loạt những lỗi lầm sau này, cộng thêm vào thời tiết khó khăn là chiếc tàu ngầm I-23 có nhiệm vụ hướng dẫn tấn công đã không có mặt tại đây, trên đường di chuyển từ phiá Nam Oahu chiếc tàu ngầm I-23 đã bị mất tích, không liên lạc được từ ngày 14/02/1942, trên tàu gồm 26 thủy thủ mãi mãi chìm vào lòng biển không bao giờ còn nghe đến.
Mọi người đọc lịch sử, ai cũng biết về trận tấn công Trân châu cảng (Pearl Harbor) do Hải quân Hoàng gia Nhật thực hiện, nhưng vì những báo cáo về nó được giữ bí mật đến tận 1962 nên hầu như ít ai biết về trận tấn công thứ nhì cũng nhắm cùng mục tiêu là Trân châu cảng, cũng do Hải quân Nhật thực hiện không lâu sau trận tấn công lần thứ nhất.
Trận tấn công này mang biệt danh "chiến dịch K" do Hải quân Nhật thực hiện, một chiến dịch không kích đánh bom vào căn cứ Hải quân Mỹ tại Pearl Harbor lần thứ nhì.
Mục tiêu của chiến dịch K là đánh phá chương trình cứu hộ và phục hồi hạm đội của Mỹ đã bị tấn công trước đó, trong trận đánh trước, các mục tiêu như khu kho xăng dầu bên cạnh phi trường hải quân Pearl Harbor và khu cầu cảng tân trang sửa chữa của Hải quân đã thoát không bị tấn công phá hủy. Mục tiêu chính của Chiến dịch K là ngăn chặn công tác sửa chữa, trục vớt các chiến hạm của Mỹ đang được triển khai hết công suất, nhằm phá hủy hoàn toàn hạm đội Mỹ. Đây được biết là một phi vụ thả bom đường xa nhất trong thế chiến thứ hai mà không có chiến đấu cơ bay kèm bảo vệ.
Chiến dịch K được tung ra vào ngày 04/03/1942, là đêm trăng tròn sáng nhất. Các thủy phi cơ Kawanishi H8K với biệt danh "Emily", mỗi chiếc máy bay khổng lồ này với trọng lượng cất cánh 32,500 kg (71,650 lbs) với sải cánh 38 m (124 ft). Máy bay được trang bị bốn động cơ 1,850 mã lực, tốc độ tối đa khoảng 475 km/giờ với phi hành đoàn 10 người.
Phe đồng minh đặt tên cho những chiếc thủy phi cơ này hỗn danh "con Nhím bay", chiếc phi cơ với trang bị hoả lực gồm 10 họng súng đại liên, khoảng cũng cỡ số đó súng đại bác 20 ly. Chiếc thủy phi cơ H8K này có khả năng thi hành những phi vụ dài 24 tiếng và có thể mang theo mỗi chiếc 8 trái bom loại 550 lbs mỗi trái.
Kế hoạch ban đầu của bộ chỉ huy tối cao Hải quân Nhật là sử dụng 5 chiếc thủy phi cơ H8K bay tới French Frigate Shoals -là một đảo san hô lớn nhất nằm phiá Tây Bắc của Hawaii- tại đây tàu ngầm sẽ bơm tiếp nhiên liệu cho các máy bay để có thể bay đến Pearl Harbor. Nếu trận tấn công đầu tiên thành công, sẽ tiếp tục các đợt tấn công kế tiếp cho đến khi hoàn toàn phá hủy mục tiêu.
Khi cuộc tấn công gần kề, lịch sử cũng lặp lại hơn một lần nữa, cũng giống như trong trận tấn công vào Trân châu cảng đầu tiên đã xảy ra ngày 7/12, tình báo Mỹ cũng đã thu được manh mối về một điều gì đó lớn sắp xảy ra với Hả̉i quân Nhật, nhưng thật đáng kinh ngạc, các tin tình báo một lần nữa bị bỏ qua về chiến dịch này.
Khó khăn-thất bại.
Trở ngại đầu tiên là vào ngày tiến hành chiến dịch, chỉ có 2 chiếc máy bay sẵng sàng chiến đấu, chiếc thứ 1 do Thiếu tá phi công Hisao Hashizume, chỉ huy chiến dịch và chiếc thứ 2 do Hải quân Thiếu úy Shosuke Sasao lái. Chiến dịch bắt đầu tại Wojte Atoll (Quần đảo Marshall), mỗi chiếc máy bay đã được trang bị bốn quả bom loại 250 kg. Từ Wojte, các thủy phi cơ bay 3.100 km tới French Frigate Shoals, sau khi tiếp nhiên liệu ở đây, những chiếc máy bay cất cánh trực chỉ Trân Châu Cảng cách đó 900 km. Song song trong chiến dịch cùng với các thủy phi cơ là một tàu ngầm, chiếc I-23 nhận nhiệm vụ sẽ tiến vào vùng oanh tạc trước để hướng dẫn các thủy phi cơ tấn công mục tiêu.
Trước đó, Hải quân Nhật đã giải được mật mã của quân Mỹ tại khu vực Hawaii dùng để thông báo tin tức khí tượng trong vùng, nhưng không lâu trước trận tấn công, phía Mỹ đã đổi mật mã nên Hải quân nhật hoàn toàn không biết tin về khí tượng trong vùng mục tiêu.
Mục tiêu tấn công là quân cảng, xưởng sửa chữa "Ten ten dock", cái tên của cảng được gọi theo chiều dài của cầu cảng do nó dài 1,010 ft (310 m), toàn bộ những chiến hạm cần sửa chữa đang nằm tại đây, mốc thời gian của chiến dịch dội bom được ấn định khoảng nửa đêm. Cản trở lớn nhất của chiến dịch là thời tiết bất lợi tại Trân châu cảng, từ việc thời tiết khắc nghiệt này đã dẫn đến hàng loạt những lỗi lầm sau này, cộng thêm vào thời tiết khó khăn là chiếc tàu ngầm I-23 có nhiệm vụ hướng dẫn tấn công đã không có mặt tại đây, trên đường di chuyển từ phiá Nam Oahu chiếc tàu ngầm I-23 đã bị mất tích, không liên lạc được từ ngày 14/02/1942, trên tàu gồm 26 thủy thủ mãi mãi chìm vào lòng biển không bao giờ còn nghe đến.
Khi hai chiếc máy bay mém bom bay vào không phận Pearl Harbor, nhưng do thời tiết ngày hôm đó là ngày trời mưa tầm tã, mây đen kín bầu trời. Điều này có nghĩa là khi những người lính phòng không Mỹ trên mặt đất không thể nhìn thấy những chiếc thủy phi cơ thì những chiếc máy bay này cũng không thể nhìn thấy mặt đất.
May mắn cho phía Mỹ là do thiệt hại từ trận tấn công lần trước ảnh hưởng đến nhà máy phát điện, nên đa số các cơ sở trên đảo bị mất điện, các mốc tiêu để nhận diện trong đêm đều chìm trong bóng tối, các phi công Nhật hoàn toàn chỉ đoán theo bản đồ.
May mắn cho phía Mỹ là do thiệt hại từ trận tấn công lần trước ảnh hưởng đến nhà máy phát điện, nên đa số các cơ sở trên đảo bị mất điện, các mốc tiêu để nhận diện trong đêm đều chìm trong bóng tối, các phi công Nhật hoàn toàn chỉ đoán theo bản đồ.
Vì không có hướng dẫn của tàu ngầm I-23, các phi công Nhật phải đoán chừng từ điểm ngắm của hải đăng ở mũi Kaena để lấy tọa độ tác chiến, chỉ huy chiến dịch Hashizume tấn công từ hướng Bắc, do thời tiết mưa dữ dội nên liên lạc radio giữa các phi công quá tệ dẫn đến phi công của chiếc máy bay thứ 2, Thiếu úy Sasao bay trượt khỏi bờ biển Oahu.
Do mưa quá lớn, vào khoảng 2 giờ sáng Thiếu tá Hashizume chỉ có thể nhìn thấy mờ ảo đất liền, anh cố gắng thả 4 trái bom vào Tantalus Peak, những trái bom rớt gần trường trung học khu vực và hầu như không gây tổn thất gì cho ngôi trường. Thiếu úy Sasao cũng thả 4 trái bom vào đâu đó gần vịnh Pearl Harbor và bay trở về Wotje Atoll. Chỉ huy Thiếu tá Hashizume vì máy bay bị hư hỏng khi tiếp nhiên liệu, đã bay về căn cứ tại Jaluit Atoll.
Kết,
Chiến dịch K thất bại hoàn toàn. Chiến dịch đã bị sui xẻo ngay từ thời điểm bắt đầu, chỉ có 2 thay vì 5 chiếc máy bay sẵn sàng cho chiến dịch, thời tiết quá tệ đã bắt buộc các phi công Nhật phải đánh bom mà không hề nhìn thấy mục tiêu, các thủy phi cơ khổng lồ đã trở về với thất vọng tràn trề, chiến dịch chấm dứt từ đây.
Chiến dịch K đã thu lượm được gì:
Không nhiều, ngoài việc cho thấy máy bay chiến đấu của Nhật Bản vẫn có thể xâm nhập không phận Hawaii như chốn không người trong khi Quân đội và Hải quân Hoa Kỳ đổ lỗi cho nhau về vụ nổ về đêm bí ẩn (thời điểm này phía Mỹ vẫn không biết gì về chiến dịch K, và vụ nổ bom trong đêm 04/03/1942)
Mỹ cũng hoàn toàn không biết gì về người Nhật đã lên kế hoạch tình báo cho một cuộc tấn công khác diễn ra tiếp vào ngày 6 hoặc 7/3, nhưng do các phi hành đoàn kiệt sức và máy bay bị hư hỏng buộc phải hoãn lại đến ngày 30/05.
Trong lúc này Tokyo tuyệt vọng tìm kiếm tung tích của các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ để tấn công, nhưng đã quá muộn, hải quân Mỹ cuối cùng đã biết đến việc hải quân Nhật có thể sử dụng đảo Frigate Shoals của Pháp làm nơi tiếp nhiên liệu và vội vã đưa tàu chiến đến khu vực nhằm canh giữ, hải quân Nhật miễn cưỡng phải hủy bỏ kế hoạch của họ.
Cùng lúc đó, hải quân Nhật không hề biết rằng các tàu sân bay của Hoa Kỳ đang bí mật tiến về phía Midway và sau đó đã nổ ra trận chiến Midway quyết định, từ kết quả trận này hải quân Mỹ đã ngăn chặn đà tấn công của Nhật Bản trong cuộc chiến hàng hải và đưa hải quân Mỹ tiến lên con đường chiến thắng trong thế chiến II.
Lãng mạn chiến tranh,
Câu chuyện có thể đã kết thúc khác đi nếu chỉ huy Chiến dịch K, Thiếu tá Hashizume đêm ấy nhìn lên thấy bầu trời trăng sáng vằng vặc và trời trong vắt những vì sao.
Do mưa quá lớn, vào khoảng 2 giờ sáng Thiếu tá Hashizume chỉ có thể nhìn thấy mờ ảo đất liền, anh cố gắng thả 4 trái bom vào Tantalus Peak, những trái bom rớt gần trường trung học khu vực và hầu như không gây tổn thất gì cho ngôi trường. Thiếu úy Sasao cũng thả 4 trái bom vào đâu đó gần vịnh Pearl Harbor và bay trở về Wotje Atoll. Chỉ huy Thiếu tá Hashizume vì máy bay bị hư hỏng khi tiếp nhiên liệu, đã bay về căn cứ tại Jaluit Atoll.
Kết,
Chiến dịch K thất bại hoàn toàn. Chiến dịch đã bị sui xẻo ngay từ thời điểm bắt đầu, chỉ có 2 thay vì 5 chiếc máy bay sẵn sàng cho chiến dịch, thời tiết quá tệ đã bắt buộc các phi công Nhật phải đánh bom mà không hề nhìn thấy mục tiêu, các thủy phi cơ khổng lồ đã trở về với thất vọng tràn trề, chiến dịch chấm dứt từ đây.
Chiến dịch K đã thu lượm được gì:
Không nhiều, ngoài việc cho thấy máy bay chiến đấu của Nhật Bản vẫn có thể xâm nhập không phận Hawaii như chốn không người trong khi Quân đội và Hải quân Hoa Kỳ đổ lỗi cho nhau về vụ nổ về đêm bí ẩn (thời điểm này phía Mỹ vẫn không biết gì về chiến dịch K, và vụ nổ bom trong đêm 04/03/1942)
Mỹ cũng hoàn toàn không biết gì về người Nhật đã lên kế hoạch tình báo cho một cuộc tấn công khác diễn ra tiếp vào ngày 6 hoặc 7/3, nhưng do các phi hành đoàn kiệt sức và máy bay bị hư hỏng buộc phải hoãn lại đến ngày 30/05.
Trong lúc này Tokyo tuyệt vọng tìm kiếm tung tích của các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ để tấn công, nhưng đã quá muộn, hải quân Mỹ cuối cùng đã biết đến việc hải quân Nhật có thể sử dụng đảo Frigate Shoals của Pháp làm nơi tiếp nhiên liệu và vội vã đưa tàu chiến đến khu vực nhằm canh giữ, hải quân Nhật miễn cưỡng phải hủy bỏ kế hoạch của họ.
Cùng lúc đó, hải quân Nhật không hề biết rằng các tàu sân bay của Hoa Kỳ đang bí mật tiến về phía Midway và sau đó đã nổ ra trận chiến Midway quyết định, từ kết quả trận này hải quân Mỹ đã ngăn chặn đà tấn công của Nhật Bản trong cuộc chiến hàng hải và đưa hải quân Mỹ tiến lên con đường chiến thắng trong thế chiến II.
Lãng mạn chiến tranh,
Câu chuyện có thể đã kết thúc khác đi nếu chỉ huy Chiến dịch K, Thiếu tá Hashizume đêm ấy nhìn lên thấy bầu trời trăng sáng vằng vặc và trời trong vắt những vì sao.
Thủy phi cơ H8K 42, tổng hợp. |
Thứ Bảy, 21 tháng 10, 2017
Dối trá.
Trên đây là tấm hình của phóng viên Larry Burrows chụp tại VN, được dùng làm hình bìa số báo Telegraph ngày 01/05/1970.
Larry Burrows là phóng viên ảnh người Anh nổi tiếng xông xáo dũng cảm, sống chết với nghề, đã tác nghiệp ở Việt Nam từ năm 1962 để lại rất nhiều hình ảnh lịch sử về cuộc chiến này cũng bỏ mình khi mới 44 tuổi (tháng 2/1971) với chiếc máy ảnh trên tay trong chiến dịch Lam Sơn 719, khi chiếc trực thăng chở ông và đồng nghiệp bị bắn rớt.
*****
Trích trong tryện về liệt sỹ nguyễn thị Tư, lồng trong huyền sử "Giọt sữa cuối cùng"
...''Rồi chị gượng đứng lên, giành lại đứa con từ trong tay giặc. Nước mắt tuôn trào, chị thầm gọi con… ơi. Bú nhanh lên kẻo không còn kịp nữa. Ơi con của tôi, ơi bầu sữa. Giọt sữa cuối cùng, con bú cạn nghe con".
Ngày 17/4/1972, khi chị Tư hy sinh, bé Lê Mỹ Linh khi ấy mới chỉ hơn 10 tháng tuổi đã bị địch giằng khỏi vòng tay và bầu sữa mẹ. Cô bé ngày ấy năm nay đã tròn 40 tuổi.
Khác với mọi người, cô chưa bao giờ nghe nổi trọn vẹn bài ca “Giọt sữa cuối cùng” viết về mẹ và chính mình. Bởi lần nào cũng vậy, chỉ nghe đến "vô câu phụng hoàn" là cô đã thấy nghẹn đắng nơi cổ họng.''
(https://www.lietsi.com/Noi-dung/Cau-chuyen-co-that-tu-bai-ca-Giot-sua-cuoi-cung/2463512)
*****
Facebooker Nguyễn thị Lý đăng cùng tấm hình với bài viết khóc thương:
"TÔI ĐÃ KHÓC VÀ CÀNG CĂM PHẪN LŨ GIẶC SAU KHI XEM BỨC HÌNH NÀY - CHỊ ĐÃ BỊ GIẶC GIẾT SAU KHI CHO CON BÚ..
Người phụ nữ cho con bú trong hình là du kích Nguyễn Thị Tư, quê ở ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng, Huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, vợ 1 xã đội trưởng vừa hy sinh trong đợt chiến đấu chống càn trước đó. Lính Mỹ ngụy bắt được chị, chị bình tĩnh nói: "Đợi tao cho con tao bú rồi chúng mày muốn bắn muốn giết thì tùy". Sau đó chị bị hành quyết ở vườn sau nhà.'' Trích
Người phụ nữ cho con bú trong hình là du kích Nguyễn Thị Tư, quê ở ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng, Huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, vợ 1 xã đội trưởng vừa hy sinh trong đợt chiến đấu chống càn trước đó. Lính Mỹ ngụy bắt được chị, chị bình tĩnh nói: "Đợi tao cho con tao bú rồi chúng mày muốn bắn muốn giết thì tùy". Sau đó chị bị hành quyết ở vườn sau nhà.'' Trích
(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=357119721406745&set=a.122797798172273.1073741830.100013261592028&type=3&theater)
Kết luận, chị Tư chết 2 năm sau khi bức hình được chụp, tác giả bức hình Larry Burrows chết trước chị Tư 2 năm. Hí hí
42.
42.
Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017
Thương hiệu
Thương hiệu Vietnam.
Tấm ảnh chụp trên tường tại Catalonga với hàng chữ "Catalunya será vuestro Vietnam" thêm lần nữa khẳng định thương hiệu VN. Câu khẩu hiệu dịch ra có nghiã "Catalonga sẽ là một Việt nam của tụi bay" hay đơn giản là Catalonga sẽ là một VN khác ở Tây ban Nha.
Ngoại trừ sử đảng dậy cho bnvv về cuộc chiến tranh mới đây 1954/1975 là cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước. Trong con mắt của phương Tây lẫn toàn thế giới thì bỏn chỉ nhìn thấy thực tế cuộc chiến này chỉ là sự nổi dậy của một nhóm dân miền Nam chộng lại bọn VNCH, đại diện cho lực lượng này là MTGPMN với tất cả sự hỗ trợ của miền Bắc. Trước sau như một, trong suốt cuộc chiến tranh phiá Bắc Việt đã luôn luôn khẳng định không có bất cứ hành động can thiệp quân sự trong cuộc chiến này, chỉ ủng hộ nhân dân miền Nam chống lại Ngụy quyền.
Cả thế giới đã ủng hộ phong trào phản chiến, giúp đỡ về tinh thần lẫn vật chất và biết đến cuộc chiến này là nhân dân miền Nam đã nổi loạn, vùng lên làm cách mạng chống chính quyền và thành công.
Tấm ảnh này chỉ nhắc thêm lần nữa cái nhìn thiên lệch của bọn bnvv thế giới về cuộc chiến VN.
42,
Tấm ảnh chụp trên tường tại Catalonga với hàng chữ "Catalunya será vuestro Vietnam" thêm lần nữa khẳng định thương hiệu VN. Câu khẩu hiệu dịch ra có nghiã "Catalonga sẽ là một Việt nam của tụi bay" hay đơn giản là Catalonga sẽ là một VN khác ở Tây ban Nha.
Ngoại trừ sử đảng dậy cho bnvv về cuộc chiến tranh mới đây 1954/1975 là cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước. Trong con mắt của phương Tây lẫn toàn thế giới thì bỏn chỉ nhìn thấy thực tế cuộc chiến này chỉ là sự nổi dậy của một nhóm dân miền Nam chộng lại bọn VNCH, đại diện cho lực lượng này là MTGPMN với tất cả sự hỗ trợ của miền Bắc. Trước sau như một, trong suốt cuộc chiến tranh phiá Bắc Việt đã luôn luôn khẳng định không có bất cứ hành động can thiệp quân sự trong cuộc chiến này, chỉ ủng hộ nhân dân miền Nam chống lại Ngụy quyền.
Cả thế giới đã ủng hộ phong trào phản chiến, giúp đỡ về tinh thần lẫn vật chất và biết đến cuộc chiến này là nhân dân miền Nam đã nổi loạn, vùng lên làm cách mạng chống chính quyền và thành công.
Tấm ảnh này chỉ nhắc thêm lần nữa cái nhìn thiên lệch của bọn bnvv thế giới về cuộc chiến VN.
Catalonga sẽ là một Vienam của tụi bay. |
Thứ Sáu, 22 tháng 9, 2017
Cái cuốc chim vấy máu.
Tranh giành quyền lực của hai thế lực cộng sản.
Vào buổi tối ngày 20/8/1940, một thanh niên tên Frank Jacson ghé vào một căn nhà lớn vùng ngoại ô thành phố Mexico City của Mexico, căn nhà của ‘Ông cụ’ cái tên mà mọi người dùng cho Leon Trotsky, một người Nga nổi tiếng đang ẩn náu bên trong.
Vài phút sau đó, lưỡi cuốc chim cắm sâu 5 phân vào sọ của Trotsky và trở thành cây cuốc chim nổi tiếng nhất trong vụ giết người có thể làm thay đổi lịch sử cận đại. Mấy hôm sau, chiếc cuốc chim xuất hiện tại buổi họp báo ngắn ngủi của cảnh sát Mexico và rồi sau đó biến mất trong hơn 6 thập niên.
Thế nhưng sang năm tới, chiếc cuốc chim vấy máu này sẽ được mang ra trưng bày cho công chúng tại Viện bảo tàng Gián điệp ở Washington nhân dịp bảo tàng này mở cửa tại một tòa nhà mới để có chỗ trưng bày hàng vạn di vật được tìm lại từ trong bóng tối.
Câu chuyện về chiếc cuốc chim đã bổ vào đầu Trotsky là một câu chuyện phức tạp, ly kỳ và ghê rợn liên quan đến vụ truy sát người được xem là đối thủ của Stalin. Sau buổi họp báo năm 1940, chiếc cuốc chim được cất giữ nhiều năm trong phòng tang chứng sở cảnh sát Mexico City cho đến khi nó được một viên chức cảnh sát mật tên Alfredo Salas ký nhận mang ra, ông ta cho rằng cần bảo tồn tang vật quan trọng này cho hậu thế. Salas qua đời, để lại chiếc cuốc chim cho cô con gái Ana Alicia Salas, bà này cất giấu nó trong 40 năm trước khi quyết định mang ra rao bán vào năm 2005.
Ông Esteban Volkov là người cháu nội của Trotsky sẵn sàng cho máu để thử DNA với điều kiện bà Salas sẽ hiến tặng chiếc cuốc chim này cho nhà lưu niệm Trotsky, là căn nhà cũ ở Mexico City được giữ gìn nguyên vẹn sau vụ truy sát, nhưng bà Salas không chịu: “Tôi muốn có một lợi ích tài chính nào đó. Tôi nghĩ rằng một vật có ý nghĩa lịch sử quan trọng như thế này phải có một cái giá của nó, đúng không?”
Vài phút sau đó, lưỡi cuốc chim cắm sâu 5 phân vào sọ của Trotsky và trở thành cây cuốc chim nổi tiếng nhất trong vụ giết người có thể làm thay đổi lịch sử cận đại. Mấy hôm sau, chiếc cuốc chim xuất hiện tại buổi họp báo ngắn ngủi của cảnh sát Mexico và rồi sau đó biến mất trong hơn 6 thập niên.
Thế nhưng sang năm tới, chiếc cuốc chim vấy máu này sẽ được mang ra trưng bày cho công chúng tại Viện bảo tàng Gián điệp ở Washington nhân dịp bảo tàng này mở cửa tại một tòa nhà mới để có chỗ trưng bày hàng vạn di vật được tìm lại từ trong bóng tối.
Câu chuyện về chiếc cuốc chim đã bổ vào đầu Trotsky là một câu chuyện phức tạp, ly kỳ và ghê rợn liên quan đến vụ truy sát người được xem là đối thủ của Stalin. Sau buổi họp báo năm 1940, chiếc cuốc chim được cất giữ nhiều năm trong phòng tang chứng sở cảnh sát Mexico City cho đến khi nó được một viên chức cảnh sát mật tên Alfredo Salas ký nhận mang ra, ông ta cho rằng cần bảo tồn tang vật quan trọng này cho hậu thế. Salas qua đời, để lại chiếc cuốc chim cho cô con gái Ana Alicia Salas, bà này cất giấu nó trong 40 năm trước khi quyết định mang ra rao bán vào năm 2005.
Ông Esteban Volkov là người cháu nội của Trotsky sẵn sàng cho máu để thử DNA với điều kiện bà Salas sẽ hiến tặng chiếc cuốc chim này cho nhà lưu niệm Trotsky, là căn nhà cũ ở Mexico City được giữ gìn nguyên vẹn sau vụ truy sát, nhưng bà Salas không chịu: “Tôi muốn có một lợi ích tài chính nào đó. Tôi nghĩ rằng một vật có ý nghĩa lịch sử quan trọng như thế này phải có một cái giá của nó, đúng không?”
Chiếc cuốc chim tang vật. |
Nhà sưu tầm người Mỹ Keith Melton, Florida đã mua chiếc cuốc chim, ông là tác giả nhiều sách về gián điệp và là một trong những người sáng lập Viện bảo tàng Gián điệp Quốc tế ở Washington. Đối với Melton, sở hữu chiếc cuốc chim là một ám ảnh trong đời cuả ông: “Tôi đã mất 40 năm mới tìm ra nó, sau nhiều lần chạy theo đầu mối và nhiều lần thất vọng.” Ông đã hăng hái lần theo những tin đồn, kể cả tin đồn Tổng thống Mexico đã dùng cây cuốc chim để chận giấy tờ, cuối cùng mới lòi ra bà Salas.
Ông Melton không cho biết đã trả cho bà Salas bao nhiêu về cây cuốc chim. Bà Salas trả lời với báo bà không biết gì về chuyện cây cuốc chim đã được bán. Ông Volkov cháu nội Trotsky, trả lời mình chẳng quan tâm số phận nó nữa: “Tôi đã không thử DNA, tôi chẳng liên quan gì đến vụ mua bán của bà ấy, chuyện này chẳng có ý nghiã gì, có thể là súng là dao, ý nghiã của nó chỉ là một vũ khí đã được chọn để gây án, và vụ án cũng được thực hiện một cách vụng về. Có ai dám chắc đó quả thật là cái cuốc chim đã giết ông tôi?”
Nhà sưu tầm Melton nói ông đã xác nhận được chính xác chiếc cuốc chim, từ những phân tích và bằng chứng, những giấy tờ chứng tỏ nó đã được lưu truyền tới bà Salas, thân cuốc chim có dấu khắc của nhà sản xuất Werkgen Fulpmes bên Áo và có cùng kích thước với chiếc cuốc chim được ghi trong báo cáo của cảnh sát (chi tiết này hoàn toàn không công khai ra ngoài công chúng). Trên chiếc cuốc chim còn dấu tay dính máu của hung thủ đúng như dấu vết trong ảnh trưng trong trong buổi họp báo năm 1940.
Melton cũng tin là mình đã giải mã được một trong những bí ẩn của vụ án là tại sao hung thủ có một súng ngắn và một dao găm dài 3 tấc mà không dùng, lại đi xài cây cuốc chim thể thao?
Sau khi Lenin chết, hai người con cưng của cách mạng Nga 1917 – Trotsky và Stalin – giành nhau để thay chỗ Lenin, cuộc tranh giành này chỉ có thể giải quyết bằng cái chết của một trong hai.
Stalin chấp thuận phương án khử Trotsky năm 1939, gồm hai nhóm song song hoạt động. Vụ ám sát thứ nhất là tấn công từ mặt tiền căn nhà, trưởng nhóm là David Alfaro Siqueiros họa sĩ người Mexico chuyên vẽ tranh tường cổ vũ cách mạng vô sản ở Mexico, tự nguyện hợp tác với mật vụ NKVD của Stalin và xem việc thanh toán Trotsky là nghĩa vụ của người cộng sản quốc tế, thế giới đại đồng. Ngày 24/5/1940, Siqueiros và tổ sát thủ giả mặc đồng phục cảnh sát và quân đội, tấn công bằng súng và nã hơn 200 viên đạn vào nhà Trotsky, nhưng ông và bà vợ Natalia không bị gì cả.
Điều này như một phép lạ, nhưng phép lạ đã không kéo dài vì cú ám sát thứ hai đã được tiến hành từ lâu nhằm dự phòng, muốn hiểu vụ thứ nhì ta phải lui về quá khứ một chút.
Nhà sưu tầm Melton nói ông đã xác nhận được chính xác chiếc cuốc chim, từ những phân tích và bằng chứng, những giấy tờ chứng tỏ nó đã được lưu truyền tới bà Salas, thân cuốc chim có dấu khắc của nhà sản xuất Werkgen Fulpmes bên Áo và có cùng kích thước với chiếc cuốc chim được ghi trong báo cáo của cảnh sát (chi tiết này hoàn toàn không công khai ra ngoài công chúng). Trên chiếc cuốc chim còn dấu tay dính máu của hung thủ đúng như dấu vết trong ảnh trưng trong trong buổi họp báo năm 1940.
Melton cũng tin là mình đã giải mã được một trong những bí ẩn của vụ án là tại sao hung thủ có một súng ngắn và một dao găm dài 3 tấc mà không dùng, lại đi xài cây cuốc chim thể thao?
Sau khi Lenin chết, hai người con cưng của cách mạng Nga 1917 – Trotsky và Stalin – giành nhau để thay chỗ Lenin, cuộc tranh giành này chỉ có thể giải quyết bằng cái chết của một trong hai.
Stalin chấp thuận phương án khử Trotsky năm 1939, gồm hai nhóm song song hoạt động. Vụ ám sát thứ nhất là tấn công từ mặt tiền căn nhà, trưởng nhóm là David Alfaro Siqueiros họa sĩ người Mexico chuyên vẽ tranh tường cổ vũ cách mạng vô sản ở Mexico, tự nguyện hợp tác với mật vụ NKVD của Stalin và xem việc thanh toán Trotsky là nghĩa vụ của người cộng sản quốc tế, thế giới đại đồng. Ngày 24/5/1940, Siqueiros và tổ sát thủ giả mặc đồng phục cảnh sát và quân đội, tấn công bằng súng và nã hơn 200 viên đạn vào nhà Trotsky, nhưng ông và bà vợ Natalia không bị gì cả.
Điều này như một phép lạ, nhưng phép lạ đã không kéo dài vì cú ám sát thứ hai đã được tiến hành từ lâu nhằm dự phòng, muốn hiểu vụ thứ nhì ta phải lui về quá khứ một chút.
Năm 1938 tại đại hội những người Trốt-kít được tổ chức ở Paris để lập ra đệ Tứ Quốc tế - Cộng Sản đệ Tứ, cô Sylvia Ageloff người New York, một người ái mộ Trotsky. Tại đây, cô Ageloff được giới thiệu với một thanh niên 25 tuổi tên Jacques Mornard, nhận mình là con của một nhà ngoại giao người Bỉ.
Tên thật anh ta là Ramón Mercader, đảng viên đảng cộng sản Tây Ban Nha, anh có bà mẹ trung thành với Stalin và bà này đã cài anh vào phe Trốtkít với mục đích là tìm cách giết Trotsky.
Cô Ageloff được thuyết phục nên qua Mexico City làm việc cho gia đình Trotsky cùng Mercader, Mercader cũng nói rằng nếu đi cùng cô thì anh ta phải dùng giấy tờ giả để khỏi phải đi nghĩa vụ quân sự, anh kiếm được giấy tờ mang tên Frank Jacson (NKVD đã làm giả hộ chiếu và ghi sai tên anh, đúng ra phải là Jackson)
Cô Ageloff không nghi ngờ gì lời giải thích này và những người cận vệ của Trotsky dần quen với cảnh thường ngày Jacson đưa Ageloff đến khu nhà Trotsky đang sống.
Ngày 20/8/1940 cũng là lần thứ 10 Jacson đưa Ageloff đến khu nhà của Trotsky, nói với đám cận vệ rằng anh có một bài báo định đăng và muốn nhờ Trotsky xem qua trước. Sau cú tấn công bằng súng tự động hồi tháng 5, các biện pháp an ninh đã được tăng cường, muốn vào phòng Trotsky phải qua một cửa thứ nhì có khóa và khóa này được điều khiển bởi người trên một tháp canh. Nếu Mercader muốn thoát thân sau khi giết Trotsky, anh ta phải làm như chẳng có chuyện gì xảy ra thì tháp canh mới mở cửa thứ nhì cho anh ra được.
“Cách duy nhất để giải quyết là phải giết thật êm thấm và đi ra như mọi người khách bình thường, trước khi người ta phát hiện xác chết,”
Trong tình huống như vậy dùng súng sẽ không ổn, còn dao cũng không gì bảo đảm sẽ làm Trotsky gục tại trận mà không gây ồn ào. Theo kinh nghiệm trước đây, NKVD gợi ý cần có một lực cực kỳ vũ bão đánh dứt điểm vào gáy để có một cái chết hoàn toàn im lặng, nhanh và gọn. Để làm được như thế, Mercader đánh cắp chiếc cuốc chim thể thao của người con trai chủ nhà anh ta đang thuê.
Thế nhưng trong thực tế, khi Trotsky ngồi đọc bài báo và bị Mercader bổ chiếc cuốc vào đầu, Trotsky hét lớn và vật lộn với hung thủ cho đến khi cận vệ chạy tới.
Người cháu nội Volkov nhớ lại: “Tôi vẫn còn nhớ khi nhìn qua cánh cửa còn mở, ông tôi nằm dưới sàn, chung quanh đầu là máu, ông thấy tôi và hét "đem thằng bé đi chỗ khác, đùng để nó thấy cảnh này", "quả là một con người đầy nhân bản, giờ phút đó mà ông vẫn còn lo lắng cho tôi.”
Trotsky chết tại bệnh viện khoảng 24 tiếng sau đó, Mercader bị mang ra xử và ở tù gần 20 năm. Trong thời gian ngồi tù, người Soviet đặc trách vụ của anh cung cấp rất đầy đủ những nhu cầu anh cần, mỗi tuần đều gửi tiền tiêu xài, thậm chí còn thu xếp tìm bạn gái, một ngôi sao điện ảnh sắp nổi của Mexico tên Roquella, sau này trở thành vợ anh, theo anh về sống tại Moscow khi ra tù.
Mercader ung thư chết năm 1978 tại Cuba, có Roquella bên cạnh. Những lời cuối của Mercader là: “Lúc nào tôi cũng nghe, tôi nghe tiếng hét, tôi biết ông ta đang chờ tôi ở phía bên kia.”
Tên thật anh ta là Ramón Mercader, đảng viên đảng cộng sản Tây Ban Nha, anh có bà mẹ trung thành với Stalin và bà này đã cài anh vào phe Trốtkít với mục đích là tìm cách giết Trotsky.
Cô Ageloff được thuyết phục nên qua Mexico City làm việc cho gia đình Trotsky cùng Mercader, Mercader cũng nói rằng nếu đi cùng cô thì anh ta phải dùng giấy tờ giả để khỏi phải đi nghĩa vụ quân sự, anh kiếm được giấy tờ mang tên Frank Jacson (NKVD đã làm giả hộ chiếu và ghi sai tên anh, đúng ra phải là Jackson)
Cô Ageloff không nghi ngờ gì lời giải thích này và những người cận vệ của Trotsky dần quen với cảnh thường ngày Jacson đưa Ageloff đến khu nhà Trotsky đang sống.
Ngày 20/8/1940 cũng là lần thứ 10 Jacson đưa Ageloff đến khu nhà của Trotsky, nói với đám cận vệ rằng anh có một bài báo định đăng và muốn nhờ Trotsky xem qua trước. Sau cú tấn công bằng súng tự động hồi tháng 5, các biện pháp an ninh đã được tăng cường, muốn vào phòng Trotsky phải qua một cửa thứ nhì có khóa và khóa này được điều khiển bởi người trên một tháp canh. Nếu Mercader muốn thoát thân sau khi giết Trotsky, anh ta phải làm như chẳng có chuyện gì xảy ra thì tháp canh mới mở cửa thứ nhì cho anh ra được.
“Cách duy nhất để giải quyết là phải giết thật êm thấm và đi ra như mọi người khách bình thường, trước khi người ta phát hiện xác chết,”
Trong tình huống như vậy dùng súng sẽ không ổn, còn dao cũng không gì bảo đảm sẽ làm Trotsky gục tại trận mà không gây ồn ào. Theo kinh nghiệm trước đây, NKVD gợi ý cần có một lực cực kỳ vũ bão đánh dứt điểm vào gáy để có một cái chết hoàn toàn im lặng, nhanh và gọn. Để làm được như thế, Mercader đánh cắp chiếc cuốc chim thể thao của người con trai chủ nhà anh ta đang thuê.
Thế nhưng trong thực tế, khi Trotsky ngồi đọc bài báo và bị Mercader bổ chiếc cuốc vào đầu, Trotsky hét lớn và vật lộn với hung thủ cho đến khi cận vệ chạy tới.
Người cháu nội Volkov nhớ lại: “Tôi vẫn còn nhớ khi nhìn qua cánh cửa còn mở, ông tôi nằm dưới sàn, chung quanh đầu là máu, ông thấy tôi và hét "đem thằng bé đi chỗ khác, đùng để nó thấy cảnh này", "quả là một con người đầy nhân bản, giờ phút đó mà ông vẫn còn lo lắng cho tôi.”
Trotsky chết tại bệnh viện khoảng 24 tiếng sau đó, Mercader bị mang ra xử và ở tù gần 20 năm. Trong thời gian ngồi tù, người Soviet đặc trách vụ của anh cung cấp rất đầy đủ những nhu cầu anh cần, mỗi tuần đều gửi tiền tiêu xài, thậm chí còn thu xếp tìm bạn gái, một ngôi sao điện ảnh sắp nổi của Mexico tên Roquella, sau này trở thành vợ anh, theo anh về sống tại Moscow khi ra tù.
Mercader ung thư chết năm 1978 tại Cuba, có Roquella bên cạnh. Những lời cuối của Mercader là: “Lúc nào tôi cũng nghe, tôi nghe tiếng hét, tôi biết ông ta đang chờ tôi ở phía bên kia.”
https://www.theguardian.com/world/2017/sep/13/trotsky-ice-axe-murder-mexico-city?CMP=twt_gu&wpmm=1&wpisrc=nl_daily202
Thứ Ba, 19 tháng 9, 2017
Xác của nhà độc tài.
Triển lãm "Xác nhà Độc tài" gây tiếng vang lớn tại Hong Kong
Được làm từ acrylic và silica gel, các xác được khoác lên người những bộ đồng phục đã làm nên "thương hiệu" của họ, tất cả đều nằm trong quan tài bằng kính, ngoại trừ Castro "đang hấp hối" trên giường bệnh (vì lúc hoàn thành bộ sưu tập ông ta vẫn còn sống).
Các hình nộm được tạo ra bởi nghệ sĩ Trung Quốc Shen Shaomin. Shen gọi tên triển lãm của mình là "Dead Dictators" (Nhà Độc tài đã chết). Phòng trưng bày các lãnh tụ độc tài được gọi là "Hội nghị thượng đỉnh" theo cảm hứng từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008.
Hình nộm Fidel castro nằm thở thoi thóp cùng với xác vài lãnh tụ cộng sản tập trung tại Hong Kong - một trung tâm của tư bản trên thế giới - trong một chương trình triển lãm táo bạo tại trung tâm Art Basel.
Các bản sao của Mao Trạch Đông, Vladimir Lenin, Kim Il-Sung, Hồ Chí Minh và Fidel Castro đang được trưng bày ở trong trung tâm hội nghị của thành phố, thu hút những người đam mê nghệ thuật và chụp ảnh.
Các hình nộm được tạo ra bởi nghệ sĩ Trung Quốc Shen Shaomin. Shen gọi tên triển lãm của mình là "Dead Dictators" (Nhà Độc tài đã chết). Phòng trưng bày các lãnh tụ độc tài được gọi là "Hội nghị thượng đỉnh" theo cảm hứng từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008.
Thoạt đầu nó được dàn dựng cho lễ hội nghệ thuật đương đại Sydney Biennale vào năm 2010 - khi đó Castro vẫn còn sống - nhằm thể hiện ý tưởng là một cuộc gặp tưởng tượng của các nhà độc tài cũ để nhại lại nhóm G8 đã ngừng hoạt động của các quốc gia công nghiệp giàu có.
Shen nói với AFP tại triển lãm Hồng Kông: "lúc này nhiều học giả phương Tây đã trở nên nghi ngờ về chủ nghĩa tư bản, họ đang so sánh và thảo luận các lý thuyết về chủ nghĩa cộng sản, vì vậy tôi đã sáng tạo ra chủ đề 'G5'.
Shen, trong khi vừa nói vừa giỡn nhét chiếc iPhone của mình vào tay Castro: "Người dân của các quốc gia khác nhau, nền văn hoá khác nhau, kinh nghiệm khác nhau có cách giải thích vấn đề theo cách riêng của họ"
Gallerist Agnes Lin, người đại diện cho phòng triển lãm Art Basel, cho biết cô đã lo lắng liệu triển lãm này có được phép ở Hong Kong hay không, nơi Trung Quốc đang thắt chặt sự kìm kẹp của mình. Mao Trạch Đông vẫn là một nhân vật gây tranh cãi ở đại lục và sự xuất hiện của ông tại triển lãm này là rất nhạy cảm!
Mặc dù trên thực tế hình nộm của Mao và các nhà độc tài khác đã được sản xuất ở Bắc Kinh, tại cơ sở của Shen, nhưng theo cô Lin cho biết:
Shen nói với AFP tại triển lãm Hồng Kông: "lúc này nhiều học giả phương Tây đã trở nên nghi ngờ về chủ nghĩa tư bản, họ đang so sánh và thảo luận các lý thuyết về chủ nghĩa cộng sản, vì vậy tôi đã sáng tạo ra chủ đề 'G5'.
Shen, trong khi vừa nói vừa giỡn nhét chiếc iPhone của mình vào tay Castro: "Người dân của các quốc gia khác nhau, nền văn hoá khác nhau, kinh nghiệm khác nhau có cách giải thích vấn đề theo cách riêng của họ"
Gallerist Agnes Lin, người đại diện cho phòng triển lãm Art Basel, cho biết cô đã lo lắng liệu triển lãm này có được phép ở Hong Kong hay không, nơi Trung Quốc đang thắt chặt sự kìm kẹp của mình. Mao Trạch Đông vẫn là một nhân vật gây tranh cãi ở đại lục và sự xuất hiện của ông tại triển lãm này là rất nhạy cảm!
Mặc dù trên thực tế hình nộm của Mao và các nhà độc tài khác đã được sản xuất ở Bắc Kinh, tại cơ sở của Shen, nhưng theo cô Lin cho biết:
"(Art Basel) thực sự đã cố gắng hết sức để có được cái xác Mao trạch Đông trưng bày ở nơi này".
"Tôi nghĩ Hong Kong vẫn còn tự do ... chúng tôi vẫn có thể tự do thể hiện tác phẩm này và tôi rất hạnh phúc về điều đó". Ông Shen cho biết ông với một nhóm 7 đến 8 nghệ nhân làm việc trong 6 tháng để tạo ra các hình nộm lãnh tụ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng hình dạng của các nhà lãnh đạo, thậm chí từ nốt ruồi đến lông và tóc của họ.
Tiernan Breen, 18 tuổi, một sinh viên đến từ Fiji cho biết, "Những hình nộm này kích thích làm cho mọi người muốn tìm hiểu thêm về họ", "Bạn sẽ tự đặt cho mình những câu hỏi mà chắc chắn rằng bạn sẽ không hỏi nếu bạn đã không bao giờ nhìn thấy những cái xác này."
Shen không mong đợi một nhà sưu tập cá nhân nào đó sẽ mua, mà hy vọng tác phẩm của ông sẽ được một viện bảo tàng mua và lưu giữ.
Triển lãm này đã ra mắt công chúng tại Úc, Pháp và Singapore.
Tiernan Breen, 18 tuổi, một sinh viên đến từ Fiji cho biết, "Những hình nộm này kích thích làm cho mọi người muốn tìm hiểu thêm về họ", "Bạn sẽ tự đặt cho mình những câu hỏi mà chắc chắn rằng bạn sẽ không hỏi nếu bạn đã không bao giờ nhìn thấy những cái xác này."
Shen không mong đợi một nhà sưu tập cá nhân nào đó sẽ mua, mà hy vọng tác phẩm của ông sẽ được một viện bảo tàng mua và lưu giữ.
Triển lãm này đã ra mắt công chúng tại Úc, Pháp và Singapore.
http://www.straitstimes.com/lifestyle/arts/dead-dictators-draw-hong-kong-art-crowds
Thứ Hai, 18 tháng 9, 2017
Điện thư.
Hà nội ngày 28 tháng 2 năm 1946.
Tổng thống Hochiminh Việt nam dân chủ cộng hòa Hà nội gởi Tổng thống Hiệp chủng quốc Hoa kỳ Washington DC.
Nhân danh chính phủ Việt nam và nhân dân tôi xin báo cho ngài rằng theo thoả thuận giữa chính phủ VN và đại diện Pháp quy định cuối cùng về rút quân ở Đông dương và sự trở lại của lực lượng Pháp tại Hà nội. Trong lúc này người Pháp và quân đội đang chuẩn bị một cuộc đảo chánh tại Hà nội và quân đội đang lấn chiếm. Do đó tôi rất nghiêm túc khẩn cầu riêng với ngài và với dân chúng Hoa kỳ xin can thiệp ngay lập tức nhằm ủng hộ cho sự độc lập của chúng tôi và giúp tuân thủ những điều khoản của thoả ước Đại tây dương và Cựu kim sơn.
Kính thư. Hochiminh,
Thứ Hai, 4 tháng 9, 2017
Vụ bê bối Biệt kích-The Green beret affair.
Án mạng thời chiến, vụ thủ tiêu Thái khắc Chuyên.
Giọt nước tràn ly.
Đêm 19/2/1969 trung sỹ Terry McIntosh, thuộc biệt đội A-141 dẫn tiểu đội biệt kích 12 người Thượng đi phục kích, trong đó có Thái khắc Chuyên đi với nhiệm vụ thông dịch viên, theo tin tình báo cung cấp một trung đội vc trang bị vũ khí nặng đang trên đường di chuyển để tấn công Mộc Hóa. Khi trời chớm bình minh, toán phục kích phát hiện du kích tiến ra từ ven bià rừng, tuy không thể chắc chắn bao nhiêu địch quân, nhưng qua ống kính nhìn đêm nhóm vc đúng là đang di chuyển về hướng Mộc Hóa. Trung sỹ Terry lệnh qua Chuyên báo động toàn tiểu đội, mọi người sẵn sàng nằm im chờ lệnh, sau trái M79 của Terry bắn về phiá vc phát nổ tung toé, toàn bộ tiểu đội biệt kích khai hoả với tất cả hoả lực về phía trái M79 vừa rớt xuống.
Phía vc hoàn toàn không bắn trả, qua ống kính nhìn đêm Terry thấy lố nhố bóng vc chạy ngược vào trong rừng cây, Terry đưa ống kính đêm cho Chuyên cùng nhìn, anh ta cầm ống kính quan sát một hồi, Terry nhìn thấy trên môi Chuyên nở nụ cười kỳ quái, tuy lạ nhưng Terry cũng không lưu tâm mấy!
Khi Terry gọi về căn cứ để xin hoả lực pháo binh tiêu diệt địch, máy truyền tin không kiên lạc được, chỉ có tiếng ''rè rè'' trong ống liên hợp. Trung sỹ Terry quyết định truy kích địch cho dù không có pháo binh yểm trợ, toàn bộ tiểu đội tràn lên rượt theo vc vào đến bià rừng, đội hình toán biệt kích trải dài kề nhau và trút hết tất cả hoả lực họ mang theo, bắn đuổi theo những bóng du kích đang rút chạy sâu vào trong bóng tối. Terry nằm giữa với Chuyên bên trái, bên kia là một biệt kích người Thượng, lúc này Terry mới để ý là Chuyên không hề bắn một phát đạn nào, khẩu súng vất nằm lăn lóc kế bên, sau trận đánh khi được hỏi, Chuyên giải thích là súng bị hóc đạn nên không bắn được, Terry nghe vậy rồi cũng không hỏi gì thêm.
Trong khi đó ở căn cứ hoả lực, hạ sỹ Mesa khi thấy hướng tiểu đội biệt kích đi hành quân tiếng súng nổ ran và các vệt lửa đạn văng tứ tung lên trời, biết chắc là toán biệt kích chạm súng với địch, nhưng khi cố liên lạc qua máy truyền tin không được trả lời, đoán là Terry có thể đã chết hay bị thương, Mesa liên lạc với hậu cứ xin chỉ thị. Cùng lúc này, phiá vc tổ chức phản công với hoả lực rất mạnh, toán biệt kích không thể rút về hướng hậu cứ, Terry ra lệnh toàn bộ tiểu đội rút ngược ra khỏi khu bià rừng chặn hướng về Mộc Hóa và tổ chức phòng thủ chờ trời sáng, trong suốt toàn bộ trận đánh Chuyên luôn tỏ ra rất bình thản.
Mesa với hy vọng giải cứu nhóm biệt kích đã cố gắng dùng hoả lực súng cối, bắn vào những toạ độ đánh dấu trước trận phục kích và vài loạt đạn vào rặng cây ven rừng, toán biệt kích nằm im trong bóng đêm lặng lẽ nhìn đạn cối nổ từ xa và súng đạn luôn sẵn sàng nổ vào bất cứ bóng vc nào rút chạy về hướng họ đang phục kích. Sáng hôm sau khi tiểu đội về lại căn cứ hoả lực Mesa phát hiện ra chiếc máy truyền tin của nhóm phục kích bị ai đó vặn chuyển tần số khác!
Chiến dịch Gamma.
Năm 1969, can thiệp của quân đội Mỹ càng ngày càng sâu vào chiến tranh VN trong đó, dưới sự quản lý của Đoàn 5 biệt kích Mỹ, đã có khoảng 80 biệt đội A được thành lập rải rác trên khắp miền Nam, lực lượng mà sau này là những mũi nhọn trong các công tác đặc biệt của cuộc chiến chính thức và không chính thức trong cuộc chiến VN, lực lượng này đã sống, làm việc, hướng dẫn, chiến đấu và thậm chí cùng chết với những chiến binh bản địa. Một trong những nhiệm vụ chính là thu lượm tin tình báo, theo tính toán có hơn 50% tin tình báo hàng ngày trong chiến tranh là đến từ các đơn vị biệt kích.
Nhiều biệt đội thậm chí nắm rõ từng tên tuổi, vùng hoạt động của du kích và khi cần họ lặng lẽ truy lùng và tiêu diệt đối phương. Để bảo mật nhiệm vụ thu thập tin tình báo, một số sứ mệnh, hoạt động bí mật của tình báo sẽ được thành lập và đặt tên mật mã như tất cả các chiến dịch khác, tên của chương trình này được bộ chỉ huy đoàn 5 biệt kích và CIA đặt tên là "chiến dịch Gamma".
Chương trình thu thập tình báo bí mật đơn phương nhắm vào quân đội Bắc Việt và mục tiêu là tiêu diệt các cơ sở của Việt Cộng ở Campuchia, bao gồm cả chính quyền Căm Bốt đang hỗ trợ cho vc. Bản thân chương trình phải rất bí mật vì nó liên quan đến những phản ứng quốc tế nếu bị tiết lộ, hệ quả từ các cuộc ném bom chiến lược B-52 bí mật đã được tiến hành tại biên giới Campuchia vào thời đó nhằm tiêu diệt cơ sở cộng sản. Nếu chương trình này bị phát hiện, những hậu quả về mặt chính trị ở Hoa Kỳ và những nước đồng minh sẽ rất nghiêm trọng.
Các chiến binh biệt kích hoạt động trong chương trình Gamma hoạt động dưới các vỏ bọc dân sự như: chuyên gia chiến tranh tâm lý, xã hội. Các biệt đội A được đặt dọc theo biên giới Campuchia, 5 toán thu thập tin đã xây dưng được 13 mạng lưới tình báo gồm 98 điệp viên dưới các bí danh nhằm cung cấp tin tức.
Mạng lưới tình báo này, vào 10/68 khi tổng kết, đã cung cấp 65% tin tình báo cho biết về thực lực, địa điểm đóng quân của các lực lượng Bắc Việt trên đất Campuchia, hơm 75% nguồn tin như thế về lực lượng Bắc Việt hoạt động trong lãnh thổ VN. Chương trình được đánh giá là thành công và hiệu qủa nhất của Hoa kỳ tại Đông nam á, phiá Bắc Việt đã không hề biết gì về chiến dịch Gamma này. Cho đến đầu năm 1969, Biệt đội B-57 Thạnh Trị, đơn vị quản lý các toán biệt kích A nhận thấy rất nhiều các đầu mối gián điệp quan trọng cung cấp tin tình báo qúy giá ngày càng bị biến mất một cách bí ẩn, theo suy diễn chắc chắn trong nội bộ chương trình có điệp viên hai mang hoạt động cho cộng quân. Chương trình Gamma có thể bị phá hoại hoàn toàn từ tên gián điệp vc nào đó chui vào trong hệ thống của biệt kích.
Thái khắc Chuyên.
Ngày 15/10/1968, Trung sỹ Peter Sands bí danh là Alvin Smith nhận nhiệm sở tại B-41 đóng ở Mộc Hoá (Các biệt đoàn B là đơn vị chỉ huy của những biệt đội A). Một tuần sau, Chuyên xin vào làm thông dịch viên và từ đó Sands và Chuyên thành đôi bạn thân, Sands đồng thời cũng là chỉ huy trực tiếp của Chuyên trong công tác.
(Sinh năm 1938 tại miền Bắc, Thái Khắc Chuyên là con ông Thái Khắc Qui và bà Thái Thị Lục. Năm 1954, gia đình Chuyên di cư vào Nam, do thương nhớ ba đứa con trai và hai đứa con gái còn ở lại miền Bắc nên bà Lục quay về Bắc).
Vì tổn thất trong chiến đấu, nhiều thông dịch viên của các biệt đội A bị chết và bị thương nên cần bổ xung, Thái khắc Chuyên được biệt phái đến B-57 Thạnh Trị nhằm bổ xung chỗ thông dịch viên đang thiếu.
3/3/1969, Sands gởi yêu cầu sưu tra lý lịch với tên Chu Yên Thái Khắc, vài ngày sau báo cáo cho thấy "không có lưu trữ" suy ra lý lịch Chuyên không có vấn đề gì. Tuần sau đó, Chuyên được lăn tay, chụp hình và chính thức nhận mật danh hoạt động SF7-166, làm việc cho CIA. Điều đáng chú ý là Sands đã không hề yêu cầu Chuyên tiến hành thử qua máy nói dối. Thêm nữa, trong khi không hề có ghi chép nào về nghề nghiệp và học vấn nhưng Chuyên nói tiếng Anh lưu loát đến độ mọi người phải ngạc nhiên.
Vào 10/5/1969, trong một trận đột kích vào chiến khu bên kia biên giới Campuchia khu Mỏ Vẹt, biệt kích thu được nhiều tài liệu trong đó có một số hình chụp, sau khi đưa cho Sands nhận diện, xác nhận người trong hình chụp với một nhóm cán binh Việt cộng đúng là Chuyên đứng cạnh một sỹ quan Bắc việt.
Với kết luận Chuyên là gián điệp vc, chỉ huy đơn vị biệt kích ra lệnh thủ tiêu Thái khắc Chuyên, Chuyên bị chích thuốc mê, mang ra ngoài khơi Nha Trang bắn chết, cột niềng xe và thẩy xuống biển phi tang.
Sau cái chết của Chuyên, Sands tự thấy không an toàn nên đã chạy vào trụ sở CIA tố cáo vụ thủ tiêu này. Vụ giết Thái Khắc Chuyên đến tai tướng Abrams, Tư lệnh MACV. Theo luật của quân đội Mỹ, không ai có quyền đơn phương xử tử nghi can nên tướng George Marbry, phụ tá tình báo thừa lệnh Abrams ra quyết định bắt giam những nhân vật chủ chốt và những người liên quan đến vụ Thái Khắc Chuyên, gồm Brumley, Boyle, Marasco, Williams, Middleton, Crew, Ken Facey, Kautson, Wayne Ishimato. Riêng trung sĩ Sands bị bắt và bị dẫn độ về Sài Gòn một mình vì Sands là nhân chứng rất quan trọng. Theo lời khai của Sands, người chủ mưu chính trong vụ giết Thái Khắc Chuyên là đại tá Rheault, Chỉ huy trưởng biệt kích.
Phiên tòa xét xử vụ Thái Khắc Chuyên diễn ra ở căn cứ Long Bình vào tháng 8/1969. Vì thiếu chứng cứ và lý do chính trị, cùng với sự can thiệp của tổng thống Nixon vụ xử đã không tiến hành, các bị can được trả tự do. Liên Xô lợi dụng sự việc nầy phát động chiến dịch tuyên truyền rầm rộ. Đài phát thanh Moscow, Hà Nội tố cáo lực lượng biệt kích Mỹ là những kẻ tâm thần, cướp bóc, các nhóm chống chiến tranh đã nhân vụ này làm rùm beng lên về việc Mỹ can thiệp trong chiến tranh Việt Nam, sau này vụ việc được gọi tên "The Green Beret Affair" tức vụ tai tiếng mũ nồi xanh.
Kết:
Sau 1975, Phan Kim Liên và hai con trai sống trong khó nghèo, cô quạnh ở Sài gòn. Các anh trai của Chuyên kẹt lại Bắc Việt cũng chỉ là dân bình thường của chế độ như bao nhiêu tín đồ Thiên Chúa giáo khác. Vào tháng 8/1991, con trai cả của Thái Khắc Chuyên là Thái Quốc Việt vẫn tin cha mình còn sống, có viết thư cho ký giả J. Stein hỏi về số phận của cha mình và thú nhận: "thật khó sống với những năm tháng dài ngờ vực. . .".
Cho tới hôm nay, không ai biết sự thật của câu chuyện!
Giọt nước tràn ly.
Đêm 19/2/1969 trung sỹ Terry McIntosh, thuộc biệt đội A-141 dẫn tiểu đội biệt kích 12 người Thượng đi phục kích, trong đó có Thái khắc Chuyên đi với nhiệm vụ thông dịch viên, theo tin tình báo cung cấp một trung đội vc trang bị vũ khí nặng đang trên đường di chuyển để tấn công Mộc Hóa. Khi trời chớm bình minh, toán phục kích phát hiện du kích tiến ra từ ven bià rừng, tuy không thể chắc chắn bao nhiêu địch quân, nhưng qua ống kính nhìn đêm nhóm vc đúng là đang di chuyển về hướng Mộc Hóa. Trung sỹ Terry lệnh qua Chuyên báo động toàn tiểu đội, mọi người sẵn sàng nằm im chờ lệnh, sau trái M79 của Terry bắn về phiá vc phát nổ tung toé, toàn bộ tiểu đội biệt kích khai hoả với tất cả hoả lực về phía trái M79 vừa rớt xuống.
Phía vc hoàn toàn không bắn trả, qua ống kính nhìn đêm Terry thấy lố nhố bóng vc chạy ngược vào trong rừng cây, Terry đưa ống kính đêm cho Chuyên cùng nhìn, anh ta cầm ống kính quan sát một hồi, Terry nhìn thấy trên môi Chuyên nở nụ cười kỳ quái, tuy lạ nhưng Terry cũng không lưu tâm mấy!
Khi Terry gọi về căn cứ để xin hoả lực pháo binh tiêu diệt địch, máy truyền tin không kiên lạc được, chỉ có tiếng ''rè rè'' trong ống liên hợp. Trung sỹ Terry quyết định truy kích địch cho dù không có pháo binh yểm trợ, toàn bộ tiểu đội tràn lên rượt theo vc vào đến bià rừng, đội hình toán biệt kích trải dài kề nhau và trút hết tất cả hoả lực họ mang theo, bắn đuổi theo những bóng du kích đang rút chạy sâu vào trong bóng tối. Terry nằm giữa với Chuyên bên trái, bên kia là một biệt kích người Thượng, lúc này Terry mới để ý là Chuyên không hề bắn một phát đạn nào, khẩu súng vất nằm lăn lóc kế bên, sau trận đánh khi được hỏi, Chuyên giải thích là súng bị hóc đạn nên không bắn được, Terry nghe vậy rồi cũng không hỏi gì thêm.
Trong khi đó ở căn cứ hoả lực, hạ sỹ Mesa khi thấy hướng tiểu đội biệt kích đi hành quân tiếng súng nổ ran và các vệt lửa đạn văng tứ tung lên trời, biết chắc là toán biệt kích chạm súng với địch, nhưng khi cố liên lạc qua máy truyền tin không được trả lời, đoán là Terry có thể đã chết hay bị thương, Mesa liên lạc với hậu cứ xin chỉ thị. Cùng lúc này, phiá vc tổ chức phản công với hoả lực rất mạnh, toán biệt kích không thể rút về hướng hậu cứ, Terry ra lệnh toàn bộ tiểu đội rút ngược ra khỏi khu bià rừng chặn hướng về Mộc Hóa và tổ chức phòng thủ chờ trời sáng, trong suốt toàn bộ trận đánh Chuyên luôn tỏ ra rất bình thản.
Mesa với hy vọng giải cứu nhóm biệt kích đã cố gắng dùng hoả lực súng cối, bắn vào những toạ độ đánh dấu trước trận phục kích và vài loạt đạn vào rặng cây ven rừng, toán biệt kích nằm im trong bóng đêm lặng lẽ nhìn đạn cối nổ từ xa và súng đạn luôn sẵn sàng nổ vào bất cứ bóng vc nào rút chạy về hướng họ đang phục kích. Sáng hôm sau khi tiểu đội về lại căn cứ hoả lực Mesa phát hiện ra chiếc máy truyền tin của nhóm phục kích bị ai đó vặn chuyển tần số khác!
Chiến dịch Gamma.
Năm 1969, can thiệp của quân đội Mỹ càng ngày càng sâu vào chiến tranh VN trong đó, dưới sự quản lý của Đoàn 5 biệt kích Mỹ, đã có khoảng 80 biệt đội A được thành lập rải rác trên khắp miền Nam, lực lượng mà sau này là những mũi nhọn trong các công tác đặc biệt của cuộc chiến chính thức và không chính thức trong cuộc chiến VN, lực lượng này đã sống, làm việc, hướng dẫn, chiến đấu và thậm chí cùng chết với những chiến binh bản địa. Một trong những nhiệm vụ chính là thu lượm tin tình báo, theo tính toán có hơn 50% tin tình báo hàng ngày trong chiến tranh là đến từ các đơn vị biệt kích.
Nhiều biệt đội thậm chí nắm rõ từng tên tuổi, vùng hoạt động của du kích và khi cần họ lặng lẽ truy lùng và tiêu diệt đối phương. Để bảo mật nhiệm vụ thu thập tin tình báo, một số sứ mệnh, hoạt động bí mật của tình báo sẽ được thành lập và đặt tên mật mã như tất cả các chiến dịch khác, tên của chương trình này được bộ chỉ huy đoàn 5 biệt kích và CIA đặt tên là "chiến dịch Gamma".
Chương trình thu thập tình báo bí mật đơn phương nhắm vào quân đội Bắc Việt và mục tiêu là tiêu diệt các cơ sở của Việt Cộng ở Campuchia, bao gồm cả chính quyền Căm Bốt đang hỗ trợ cho vc. Bản thân chương trình phải rất bí mật vì nó liên quan đến những phản ứng quốc tế nếu bị tiết lộ, hệ quả từ các cuộc ném bom chiến lược B-52 bí mật đã được tiến hành tại biên giới Campuchia vào thời đó nhằm tiêu diệt cơ sở cộng sản. Nếu chương trình này bị phát hiện, những hậu quả về mặt chính trị ở Hoa Kỳ và những nước đồng minh sẽ rất nghiêm trọng.
Các chiến binh biệt kích hoạt động trong chương trình Gamma hoạt động dưới các vỏ bọc dân sự như: chuyên gia chiến tranh tâm lý, xã hội. Các biệt đội A được đặt dọc theo biên giới Campuchia, 5 toán thu thập tin đã xây dưng được 13 mạng lưới tình báo gồm 98 điệp viên dưới các bí danh nhằm cung cấp tin tức.
Mạng lưới tình báo này, vào 10/68 khi tổng kết, đã cung cấp 65% tin tình báo cho biết về thực lực, địa điểm đóng quân của các lực lượng Bắc Việt trên đất Campuchia, hơm 75% nguồn tin như thế về lực lượng Bắc Việt hoạt động trong lãnh thổ VN. Chương trình được đánh giá là thành công và hiệu qủa nhất của Hoa kỳ tại Đông nam á, phiá Bắc Việt đã không hề biết gì về chiến dịch Gamma này. Cho đến đầu năm 1969, Biệt đội B-57 Thạnh Trị, đơn vị quản lý các toán biệt kích A nhận thấy rất nhiều các đầu mối gián điệp quan trọng cung cấp tin tình báo qúy giá ngày càng bị biến mất một cách bí ẩn, theo suy diễn chắc chắn trong nội bộ chương trình có điệp viên hai mang hoạt động cho cộng quân. Chương trình Gamma có thể bị phá hoại hoàn toàn từ tên gián điệp vc nào đó chui vào trong hệ thống của biệt kích.
Thái khắc Chuyên.
Ngày 15/10/1968, Trung sỹ Peter Sands bí danh là Alvin Smith nhận nhiệm sở tại B-41 đóng ở Mộc Hoá (Các biệt đoàn B là đơn vị chỉ huy của những biệt đội A). Một tuần sau, Chuyên xin vào làm thông dịch viên và từ đó Sands và Chuyên thành đôi bạn thân, Sands đồng thời cũng là chỉ huy trực tiếp của Chuyên trong công tác.
(Sinh năm 1938 tại miền Bắc, Thái Khắc Chuyên là con ông Thái Khắc Qui và bà Thái Thị Lục. Năm 1954, gia đình Chuyên di cư vào Nam, do thương nhớ ba đứa con trai và hai đứa con gái còn ở lại miền Bắc nên bà Lục quay về Bắc).
Vì tổn thất trong chiến đấu, nhiều thông dịch viên của các biệt đội A bị chết và bị thương nên cần bổ xung, Thái khắc Chuyên được biệt phái đến B-57 Thạnh Trị nhằm bổ xung chỗ thông dịch viên đang thiếu.
3/3/1969, Sands gởi yêu cầu sưu tra lý lịch với tên Chu Yên Thái Khắc, vài ngày sau báo cáo cho thấy "không có lưu trữ" suy ra lý lịch Chuyên không có vấn đề gì. Tuần sau đó, Chuyên được lăn tay, chụp hình và chính thức nhận mật danh hoạt động SF7-166, làm việc cho CIA. Điều đáng chú ý là Sands đã không hề yêu cầu Chuyên tiến hành thử qua máy nói dối. Thêm nữa, trong khi không hề có ghi chép nào về nghề nghiệp và học vấn nhưng Chuyên nói tiếng Anh lưu loát đến độ mọi người phải ngạc nhiên.
Vào 10/5/1969, trong một trận đột kích vào chiến khu bên kia biên giới Campuchia khu Mỏ Vẹt, biệt kích thu được nhiều tài liệu trong đó có một số hình chụp, sau khi đưa cho Sands nhận diện, xác nhận người trong hình chụp với một nhóm cán binh Việt cộng đúng là Chuyên đứng cạnh một sỹ quan Bắc việt.
Với kết luận Chuyên là gián điệp vc, chỉ huy đơn vị biệt kích ra lệnh thủ tiêu Thái khắc Chuyên, Chuyên bị chích thuốc mê, mang ra ngoài khơi Nha Trang bắn chết, cột niềng xe và thẩy xuống biển phi tang.
Sau cái chết của Chuyên, Sands tự thấy không an toàn nên đã chạy vào trụ sở CIA tố cáo vụ thủ tiêu này. Vụ giết Thái Khắc Chuyên đến tai tướng Abrams, Tư lệnh MACV. Theo luật của quân đội Mỹ, không ai có quyền đơn phương xử tử nghi can nên tướng George Marbry, phụ tá tình báo thừa lệnh Abrams ra quyết định bắt giam những nhân vật chủ chốt và những người liên quan đến vụ Thái Khắc Chuyên, gồm Brumley, Boyle, Marasco, Williams, Middleton, Crew, Ken Facey, Kautson, Wayne Ishimato. Riêng trung sĩ Sands bị bắt và bị dẫn độ về Sài Gòn một mình vì Sands là nhân chứng rất quan trọng. Theo lời khai của Sands, người chủ mưu chính trong vụ giết Thái Khắc Chuyên là đại tá Rheault, Chỉ huy trưởng biệt kích.
Phiên tòa xét xử vụ Thái Khắc Chuyên diễn ra ở căn cứ Long Bình vào tháng 8/1969. Vì thiếu chứng cứ và lý do chính trị, cùng với sự can thiệp của tổng thống Nixon vụ xử đã không tiến hành, các bị can được trả tự do. Liên Xô lợi dụng sự việc nầy phát động chiến dịch tuyên truyền rầm rộ. Đài phát thanh Moscow, Hà Nội tố cáo lực lượng biệt kích Mỹ là những kẻ tâm thần, cướp bóc, các nhóm chống chiến tranh đã nhân vụ này làm rùm beng lên về việc Mỹ can thiệp trong chiến tranh Việt Nam, sau này vụ việc được gọi tên "The Green Beret Affair" tức vụ tai tiếng mũ nồi xanh.
Kết:
Sau 1975, Phan Kim Liên và hai con trai sống trong khó nghèo, cô quạnh ở Sài gòn. Các anh trai của Chuyên kẹt lại Bắc Việt cũng chỉ là dân bình thường của chế độ như bao nhiêu tín đồ Thiên Chúa giáo khác. Vào tháng 8/1991, con trai cả của Thái Khắc Chuyên là Thái Quốc Việt vẫn tin cha mình còn sống, có viết thư cho ký giả J. Stein hỏi về số phận của cha mình và thú nhận: "thật khó sống với những năm tháng dài ngờ vực. . .".
Cho tới hôm nay, không ai biết sự thật của câu chuyện!
Thứ Năm, 17 tháng 8, 2017
Vụ án Trịnh vĩnh Bình.
1. Kinh doanh
Ông Trịnh Vĩnh Bình sinh năm 1947 tại Sóc Trăng. Năm 1976, vượt biên qua định cư ở Hoà Lan với hai bàn tay trắng. Ông tiếp tục học và tốt nghiệp đại học. Được báo chí Hoà Lan ca ngợi là một người thành công trong hội nhập, và thành công trong kinh doanh. Báo chí gọi là “Vua chả giò”. Ông tham gia đảng chính trị Dân Chủ Tự Do, là đảng cầm quyền cuối thập niên 1980 ở Hòa Lan.
Đầu năm 1990, TVB tháp tùng đoàn doanh nghiệp Hòa Lan, đến VN thăm dò khả năng đầu tư.
Ông quyết định đóng cửa công ty chả giò ở Hòa Lan, đem 2,328,250 Mỹ kim tiền mặt, và 96 kí vàng về đầu tư ở VN.
Thành lập công ty Tín Thành ở Sài Gòn, xuất cảng nông, thủy sản. Công ty Bình Châu có nhà máy hải sản đông lạnh ở Vũng Tàu. Mua một số nhà đất ở Sài Gòn và BR/VT để phục vụ sản xuất. Xử dụng số vốn rất lớn trên 200 hecta đất ở Bà Rịa để trồng rừng, nghiên cứu việc nuôi tôm.
Xây dựng cơ sở biến chế thủy hải sản xuất cảng, với sản lượng 35% trên tổng số đánh bắt ở BR/VT. Xây khách sạn 10 tầng.
Sau 8 năm thành công trong kinh doanh, tài sản lên tới 6 tỷ đồng VN.
2. Bị bắt
Năm 1996 bị bắt và ra toà năm 1998.
Trịnh Vĩnh Bình trả lời phỏng vấn của đài RFA như sau:
“Công ty tôi có một số anh em cấu kết nhau, ăn cắp một số tiền ước lượng mấy trăm ngàn đô la qua nhiều năm tháng. Sau khi bị phát hiện, họ sợ bị tù tội nên dùng tiền bạc đút lót cho công an địa phương, phòng đó là PA-42, phòng cảnh sát điều tra Vũng Tàu. Đó là giám đốc, phó giám đốc và trưởng phòng tài chánh của tôi, thành một hệ thống ăn cắp. Bên công an nhận hối lộ, tìm cách bao che. Họ ra tay trước. Chụp mũ công ty tôi trốn thuế, khám xét công ty và bắt giam tôi.
Việt kiều về nước không được quyền mua nhà đất, cho nên phải nhờ thân nhân đứng tên. Một số người bà con lật lọng, tráo trở, giật tiền, tôi ở trong trường hợp đó.
3. Lòng tham
Trịnh Vĩnh Bình nói tiếp: “Thấy Việt kiều về nước làm ăn phát đạt nên họ có ý cướp giật. Tôi không quen đút lót, làm ăn chân chính, cho nên trở thành nạn nhân. Ở VN, khi Việt kiều làm ăn phát đạt thì bị chính quyền địa phương gây khó dễ để đòi tiền, đây là vụ án mà tôi bị hàm oan. Qua một thơi gian dài, gia đình tôi, bản thân tôi và một số người binh vực công lý, đã gởi nhiều đơn khiếu nại khắp nơi, nhưng không được cứu xét. Cuối cùng, tôi phải dựa vào Hiệp Ước thương mại giữa VN và Hòa Lan, đưa vụ tranh chấp ra Toà án Quốc Tế thuộc Liên Hiệp Quốc.
Sau một thời gian tại ngoại, tôi rất lo ngại cho mạng sống của mình, có thể bị bắt và bị giết, cho nên tôi phải đào thoát khỏi VN.” (Trả lời phỏng vấn đài RFA)
Thật vậy, thời đó, ngay cả người dân, hễ thấy Việt kiều thì có ý “chặt đẹp” trong việc mua bán bình thường. Một tô bún bò ở chợ An Đông, một trái dừa xiêm bán cho Việt kiều thì giá cao hơn bán cho người trong nước. Một trái dừa là một trái dừa mà giả cả khác nhau tùy theo người mua là ai.
4. Báo chí kết tội.
Xin trích nguyên văn bài báo:
“Trịnh Vĩnh Bình sinh năm 1947 tại Sóc Trăng. Năm 1976 vượt biên qua Hòa Lan.
Tính đến tháng 8 năm 1998, TVB nhập cảnh VN 63 lần, mỗi lần như thế mang theo vàng và đô la, tổng cộng 2,328,250 đô la và 96 kí vàng. Lập công ty Tín Thành mua bán nông hải sản.
Nhờ Trịnh Hiền Thanh chạy lo hộ khẩu cho mẹ vợ là bà Nguyễn Thị Thi, cho các em vợ là Phạm Thị Huệ, Phạm Thị Bé, Phạm Thị Tuyết Hằng về cư ngụ tại hộ, thuộc huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Nhưng có thêm hai hộ khẩu nữa ở thành phố Hồ Chí Minh và tại huyện Tân Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Vợ chồng của đứa cháu gái là Trịnh Mộng Kiều và Triệu Văn Dữ và Trịnh Hiền Thanh cũng có tên trong hộ khẩu ở Vủng Tàu, với mục đích đứng tên mua nhà cửa và bất động sản. TVB nhận đất trồng rừng theo chương trình 327 của chính phủ.
Trịnh Vĩnh Bình nắm trong tay 11 căn nhà, 114 nền nhà và 2,847,745 mét vuông đất.
Năm 1992, TVB chỉ đạo cho nhân viên đưa hối lộ 510 triệu đồng cho Tạ Quang Luyện, cán bộ phụ trách Nhà Đất tỉnh BR-VT.
Ngày 11-12-1998, Tòa Án Nhân Dân BR/VT phạt TVB 13 năm tù giam, nhưng cho Bình được tại ngoại. TVB kháng án. (Tù giam nhưng tại ngoại)
Trong khi TAND TP Hồ Chí Minh mở phiên xét xử, thì TVB chạy vào nhà thương Chợ Rẫy xin cứu cấp vì cao huyết áp.
Qua chi tiết trong hồ sơ, Tòa phúc thẩm TP/HCM phạt 11 năm tù giam, tịch thu toàn bộ tài sản, tổng cộng 6.1 tỷ đồng và 480 lượng vàng.
Lợi dụng vẫn còn được tại ngoại, TVB bỏ trốn.
Đầu tháng 4 năm 2005, TVB chính thức nạp đơn lên Toà án Quốc tế đòi bồi thường 100 triệu đô la.
Đó không phải là đơn thuần của một vụ kiện tụng, mà có ý đồ gây hoang mang cho những người đã, đang và sẽ đầu tư vào VN. Một luật sư tuyên bố “Trịnh Vĩnh Bình bị tội bỏ trốn, về mặt pháp lý, VN cần phải phát hành lệnh truy nã và yêu cầu dẫn độ TVB về VN thi hành bản án” (Trích)
5. Phản ứng của Hoà Lan
Năm 1996, Trịnh Vĩnh Bình bị bắt giam. Năm 1998 đem ra xử.
Đầu năm 2000, chính phủ Hoà Lan (HL) phổ biến một tập tài liệu 752 trang về vụ án của TVB. Người tích cực vận động cho TVB là GS J.J.C. Voorhoever, là một trong 18 thành viên của Hội đồng Chính phủ Hoà Lan. Cựu Bộ trưởng Quốc Phòng HL, cựu chủ tịch đảng Dân Chủ Tự Do mà TVB là một đảng viên.
- Thủ tướng HL, Wim Kok và Bộ trưởng Ngoại giao Van Aartsen gởi thơ trực tiếp cho Chủ tịch nước Trần Đức Lương yêu cầu giải quyết vụ án TVB. Đồng thời, triệu tập đại sứ CSVN là Đinh Hoàng Thắng đến Bộ Ngoại giao để phản đối.
- Cắt viện trợ phát triển và nhân đạo cho VN.
- Trong năm 2000, có 8 phái đoàn CSVN đến thăm HL. Đã bị tiếp đón lạnh nhạt và bị chất vấn tơi bời về vụ án TVB. Các phái đoàn của Trần Đức Lương, Nguyễn Văn An (QH), Phan Văn Khải, Nguyễn Dy Niên (NG), Nguyễn Đình Bin… đều bị chất vấn và chống đối. Báo chí nổi giận gọi họ là “Những khách không mời mà đến”. Tệ hại hơn nữa, công khai chỉ trích họ là “Những con vẹt chỉ biết nói mà không biết nghe”. Trong khi đó, báo chí VN thì cho rằng các chuyến công du thành công mỹ mãn.
- Bà Margareeth de Boer, Chủ tịch Ủy Ban Ngoại giao Hạ viện HL dẫn đầu một phái đoàn sang VN, trực tiếp gặp Bộ trưởng NG Nguyễn Dy Niên. Bà Boer nhấn mạnh “Vì quyền lợi của hai nước, vụ án TVB phải được giải quyết tức khắc”.
Kết quả, Hoà Lan chỉ nhận được một công hàm của Bộ Ngoại giao CSVN, thông báo với nội dung là “Bắt đúng người, xử đúng tội, áp dụng đúng luật pháp”. Sự khác biệt về quan điểm giữa VN và Hoà Lan đưa đến bế tắc.
CQVN cho rằng, TVB là công dân VN. Vụ án là việc nội bộ, và HL đã xen vào công việc nội bộ của VN.
Trái lại, Hoà Lan coi vụ án là một vi phạm vào Hiệp ước Thương mại mà hai nước đã ký năm 1994. Trong đó bao gồm những khoản cho phép thân nhân trong nước được tham gia dưới hình thức là những công ty con, còn gọi là “đầu tư đội nón”.
Ngày 4-11-2001, tại đại hội đảng bộ Vũng Tàu, trung ương đảng cho rằng vụ Trịnh Vĩnh Bình là một vụ xử sai lầm, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài, vì thế, cấp trên thi hành kỷ luật đảng bộ Vũng Tàu. (Đây là bằng chứng mà TVB nắm lấy)
Ở Hoà Lan, một luận án tiến sĩ đệ nạp tại Đại học Luật Khoa Den Haag, trình bày rõ ràng trường hợp đầu tư của TVB, dựa theo Hiệp Ước Thương mại giữa hai nước VN và HL ký kết năm 1994. Luận án được in thành sách với 3 thứ tiếng, Hoà Lan, Anh và Pháp. Một bản tiếng Việt được phát hành sau đó.
Luận án nêu rõ luật rừng ở VN, sự lộng hành của Công an VN, phép vua thua lệ làng, cuối cùng đưa người đầu tư đến tù tội và bị tịch thu tài sản.
6. Thế giới lên án
Vụ án TVB gây sôi nổi khắp thế giới.
Ngày 28-3-2005, nghị sĩ Jules Maaten, Quốc Hội Liên Âu (EU), từ Brussels cho biết, vụ án TVB đã gây hoang mang trong giới đầu tư ở châu Âu. Vụ án là một tác động tiêu cực đến quan hệ giữa EU và VN.
Ông Trịnh Vĩnh Bình sinh năm 1947 tại Sóc Trăng. Năm 1976, vượt biên qua định cư ở Hoà Lan với hai bàn tay trắng. Ông tiếp tục học và tốt nghiệp đại học. Được báo chí Hoà Lan ca ngợi là một người thành công trong hội nhập, và thành công trong kinh doanh. Báo chí gọi là “Vua chả giò”. Ông tham gia đảng chính trị Dân Chủ Tự Do, là đảng cầm quyền cuối thập niên 1980 ở Hòa Lan.
Đầu năm 1990, TVB tháp tùng đoàn doanh nghiệp Hòa Lan, đến VN thăm dò khả năng đầu tư.
Ông quyết định đóng cửa công ty chả giò ở Hòa Lan, đem 2,328,250 Mỹ kim tiền mặt, và 96 kí vàng về đầu tư ở VN.
Thành lập công ty Tín Thành ở Sài Gòn, xuất cảng nông, thủy sản. Công ty Bình Châu có nhà máy hải sản đông lạnh ở Vũng Tàu. Mua một số nhà đất ở Sài Gòn và BR/VT để phục vụ sản xuất. Xử dụng số vốn rất lớn trên 200 hecta đất ở Bà Rịa để trồng rừng, nghiên cứu việc nuôi tôm.
Xây dựng cơ sở biến chế thủy hải sản xuất cảng, với sản lượng 35% trên tổng số đánh bắt ở BR/VT. Xây khách sạn 10 tầng.
Sau 8 năm thành công trong kinh doanh, tài sản lên tới 6 tỷ đồng VN.
2. Bị bắt
Năm 1996 bị bắt và ra toà năm 1998.
Trịnh Vĩnh Bình trả lời phỏng vấn của đài RFA như sau:
“Công ty tôi có một số anh em cấu kết nhau, ăn cắp một số tiền ước lượng mấy trăm ngàn đô la qua nhiều năm tháng. Sau khi bị phát hiện, họ sợ bị tù tội nên dùng tiền bạc đút lót cho công an địa phương, phòng đó là PA-42, phòng cảnh sát điều tra Vũng Tàu. Đó là giám đốc, phó giám đốc và trưởng phòng tài chánh của tôi, thành một hệ thống ăn cắp. Bên công an nhận hối lộ, tìm cách bao che. Họ ra tay trước. Chụp mũ công ty tôi trốn thuế, khám xét công ty và bắt giam tôi.
Việt kiều về nước không được quyền mua nhà đất, cho nên phải nhờ thân nhân đứng tên. Một số người bà con lật lọng, tráo trở, giật tiền, tôi ở trong trường hợp đó.
3. Lòng tham
Trịnh Vĩnh Bình nói tiếp: “Thấy Việt kiều về nước làm ăn phát đạt nên họ có ý cướp giật. Tôi không quen đút lót, làm ăn chân chính, cho nên trở thành nạn nhân. Ở VN, khi Việt kiều làm ăn phát đạt thì bị chính quyền địa phương gây khó dễ để đòi tiền, đây là vụ án mà tôi bị hàm oan. Qua một thơi gian dài, gia đình tôi, bản thân tôi và một số người binh vực công lý, đã gởi nhiều đơn khiếu nại khắp nơi, nhưng không được cứu xét. Cuối cùng, tôi phải dựa vào Hiệp Ước thương mại giữa VN và Hòa Lan, đưa vụ tranh chấp ra Toà án Quốc Tế thuộc Liên Hiệp Quốc.
Sau một thời gian tại ngoại, tôi rất lo ngại cho mạng sống của mình, có thể bị bắt và bị giết, cho nên tôi phải đào thoát khỏi VN.” (Trả lời phỏng vấn đài RFA)
Thật vậy, thời đó, ngay cả người dân, hễ thấy Việt kiều thì có ý “chặt đẹp” trong việc mua bán bình thường. Một tô bún bò ở chợ An Đông, một trái dừa xiêm bán cho Việt kiều thì giá cao hơn bán cho người trong nước. Một trái dừa là một trái dừa mà giả cả khác nhau tùy theo người mua là ai.
4. Báo chí kết tội.
Xin trích nguyên văn bài báo:
“Trịnh Vĩnh Bình sinh năm 1947 tại Sóc Trăng. Năm 1976 vượt biên qua Hòa Lan.
Tính đến tháng 8 năm 1998, TVB nhập cảnh VN 63 lần, mỗi lần như thế mang theo vàng và đô la, tổng cộng 2,328,250 đô la và 96 kí vàng. Lập công ty Tín Thành mua bán nông hải sản.
Nhờ Trịnh Hiền Thanh chạy lo hộ khẩu cho mẹ vợ là bà Nguyễn Thị Thi, cho các em vợ là Phạm Thị Huệ, Phạm Thị Bé, Phạm Thị Tuyết Hằng về cư ngụ tại hộ, thuộc huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Nhưng có thêm hai hộ khẩu nữa ở thành phố Hồ Chí Minh và tại huyện Tân Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Vợ chồng của đứa cháu gái là Trịnh Mộng Kiều và Triệu Văn Dữ và Trịnh Hiền Thanh cũng có tên trong hộ khẩu ở Vủng Tàu, với mục đích đứng tên mua nhà cửa và bất động sản. TVB nhận đất trồng rừng theo chương trình 327 của chính phủ.
Trịnh Vĩnh Bình nắm trong tay 11 căn nhà, 114 nền nhà và 2,847,745 mét vuông đất.
Năm 1992, TVB chỉ đạo cho nhân viên đưa hối lộ 510 triệu đồng cho Tạ Quang Luyện, cán bộ phụ trách Nhà Đất tỉnh BR-VT.
Ngày 11-12-1998, Tòa Án Nhân Dân BR/VT phạt TVB 13 năm tù giam, nhưng cho Bình được tại ngoại. TVB kháng án. (Tù giam nhưng tại ngoại)
Trong khi TAND TP Hồ Chí Minh mở phiên xét xử, thì TVB chạy vào nhà thương Chợ Rẫy xin cứu cấp vì cao huyết áp.
Qua chi tiết trong hồ sơ, Tòa phúc thẩm TP/HCM phạt 11 năm tù giam, tịch thu toàn bộ tài sản, tổng cộng 6.1 tỷ đồng và 480 lượng vàng.
Lợi dụng vẫn còn được tại ngoại, TVB bỏ trốn.
Đầu tháng 4 năm 2005, TVB chính thức nạp đơn lên Toà án Quốc tế đòi bồi thường 100 triệu đô la.
Đó không phải là đơn thuần của một vụ kiện tụng, mà có ý đồ gây hoang mang cho những người đã, đang và sẽ đầu tư vào VN. Một luật sư tuyên bố “Trịnh Vĩnh Bình bị tội bỏ trốn, về mặt pháp lý, VN cần phải phát hành lệnh truy nã và yêu cầu dẫn độ TVB về VN thi hành bản án” (Trích)
5. Phản ứng của Hoà Lan
Năm 1996, Trịnh Vĩnh Bình bị bắt giam. Năm 1998 đem ra xử.
Đầu năm 2000, chính phủ Hoà Lan (HL) phổ biến một tập tài liệu 752 trang về vụ án của TVB. Người tích cực vận động cho TVB là GS J.J.C. Voorhoever, là một trong 18 thành viên của Hội đồng Chính phủ Hoà Lan. Cựu Bộ trưởng Quốc Phòng HL, cựu chủ tịch đảng Dân Chủ Tự Do mà TVB là một đảng viên.
- Thủ tướng HL, Wim Kok và Bộ trưởng Ngoại giao Van Aartsen gởi thơ trực tiếp cho Chủ tịch nước Trần Đức Lương yêu cầu giải quyết vụ án TVB. Đồng thời, triệu tập đại sứ CSVN là Đinh Hoàng Thắng đến Bộ Ngoại giao để phản đối.
- Cắt viện trợ phát triển và nhân đạo cho VN.
- Trong năm 2000, có 8 phái đoàn CSVN đến thăm HL. Đã bị tiếp đón lạnh nhạt và bị chất vấn tơi bời về vụ án TVB. Các phái đoàn của Trần Đức Lương, Nguyễn Văn An (QH), Phan Văn Khải, Nguyễn Dy Niên (NG), Nguyễn Đình Bin… đều bị chất vấn và chống đối. Báo chí nổi giận gọi họ là “Những khách không mời mà đến”. Tệ hại hơn nữa, công khai chỉ trích họ là “Những con vẹt chỉ biết nói mà không biết nghe”. Trong khi đó, báo chí VN thì cho rằng các chuyến công du thành công mỹ mãn.
- Bà Margareeth de Boer, Chủ tịch Ủy Ban Ngoại giao Hạ viện HL dẫn đầu một phái đoàn sang VN, trực tiếp gặp Bộ trưởng NG Nguyễn Dy Niên. Bà Boer nhấn mạnh “Vì quyền lợi của hai nước, vụ án TVB phải được giải quyết tức khắc”.
Kết quả, Hoà Lan chỉ nhận được một công hàm của Bộ Ngoại giao CSVN, thông báo với nội dung là “Bắt đúng người, xử đúng tội, áp dụng đúng luật pháp”. Sự khác biệt về quan điểm giữa VN và Hoà Lan đưa đến bế tắc.
CQVN cho rằng, TVB là công dân VN. Vụ án là việc nội bộ, và HL đã xen vào công việc nội bộ của VN.
Trái lại, Hoà Lan coi vụ án là một vi phạm vào Hiệp ước Thương mại mà hai nước đã ký năm 1994. Trong đó bao gồm những khoản cho phép thân nhân trong nước được tham gia dưới hình thức là những công ty con, còn gọi là “đầu tư đội nón”.
Ngày 4-11-2001, tại đại hội đảng bộ Vũng Tàu, trung ương đảng cho rằng vụ Trịnh Vĩnh Bình là một vụ xử sai lầm, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài, vì thế, cấp trên thi hành kỷ luật đảng bộ Vũng Tàu. (Đây là bằng chứng mà TVB nắm lấy)
Ở Hoà Lan, một luận án tiến sĩ đệ nạp tại Đại học Luật Khoa Den Haag, trình bày rõ ràng trường hợp đầu tư của TVB, dựa theo Hiệp Ước Thương mại giữa hai nước VN và HL ký kết năm 1994. Luận án được in thành sách với 3 thứ tiếng, Hoà Lan, Anh và Pháp. Một bản tiếng Việt được phát hành sau đó.
Luận án nêu rõ luật rừng ở VN, sự lộng hành của Công an VN, phép vua thua lệ làng, cuối cùng đưa người đầu tư đến tù tội và bị tịch thu tài sản.
6. Thế giới lên án
Vụ án TVB gây sôi nổi khắp thế giới.
Ngày 28-3-2005, nghị sĩ Jules Maaten, Quốc Hội Liên Âu (EU), từ Brussels cho biết, vụ án TVB đã gây hoang mang trong giới đầu tư ở châu Âu. Vụ án là một tác động tiêu cực đến quan hệ giữa EU và VN.
Tháng 6 năm 2005, khi Phan Văn Khải sang thăm Hoa Kỳ, kêu gọi ngoại quốc và người Việt đầu tư vào VN, thì các cơ quan truyền thông đồng loạt loan tin về CQVN âm mưu chiếm đoạt tài sản của Việt kiều Hòa Lan Trịnh Vĩnh Bình. Đài RFA (Mỹ), đài RFI (Pháp), đài BBC (Anh) đều phổ biến bài phỏng vấn ông TVB về trường hợp nạp đơn kiện CQVN tại Toà Án QT đòi bồi thường 100 triệu đô la.
Dư luận nhận thấy đầu tư vào VN là một việc bấp bênh do cái thành tích lật lọng, tráo trở của QVN. Đồng thời nhắc lại những vụ án để làm bằng chứng. Đó là vụ án của Luật sư người Ý Manizio Liberato, kiện sự lật lọng của VNAirlines và phán quyết của Toà án buộc phía VN phải bồi thường 6.5 triệu Đô la cho nguyên cáo. CQVN không chịu bồi thường, tưởng đâu không có ai dám vào VN đòi tiền. Tức thời, Toà án ra phán quyết phong toả tất cả những chương mục của VN Airlines trên toàn châu Âu, và nếu VN không bồi thường, thì một án lịnh cho một ngân hàng xuất triền ra bồi thường cho nguyên cáo Manizio Liberato. CQVN chịu thua.
7. Trịnh Vĩnh Bình vô tội
Ngày 4-12-1996, một thân nhân của TVB là Trịnh Hiền Thanh vu cáo TVB đưa hối lộ, khiến cho TVB bị bắt giam. Việc vu cáo nằm trong âm mưu của công an BR/VT.
Đến ngày 24-6-2002, Trịnh Hiền Thanh thú nhận bằng văn bản là y đã vu cáo cho TVB. Hiền Thanh chết vài năm sau đó do bịnh tiểu đường.
Qua bút phê của Phan Văn Khải cũng là một bằng chứng cụ thể TVB không có tội. Qua lời phát biểu của bà Nguyễn Thị Bình, Phó chủ tịch nước, tại QH và qua Trung Ương đảng tuyên bố thi hành kỷ luật đảng bộ Vủng Tàu và qua lời xác nhận của Ngoại trưởng Nguyễn Dy Niên với các quan chức Hoà Lan, là vụ án có nhiều sai trái. Tất cả đều chứng tỏ TVB vô tội. Đó là những bằng chứng mà TVB sẽ xử dụng tại Tòa án QT, để chứng minh rằng mình vô tội, và đòi bồi thường 100 triệu USD.
8. Vụ án kinh tế biến thành chính trị
Phòng cảnh sát điều tra PA24 do trung tá Ngô Chí Đan làm trưởng phòng, đã nhận hối lộ và cũng thừa cơ hội đó, thực hiện âm mưu cướp tài sản của TVB. Thế lực của Ngô Chí Đan rất mạnh, và có ô dù ở trên bao che, cho nên thường tống tiền các doanh nhân, cụ thể là trong vụ án Phương Vicarrent, đã tống tiền 100,000 đô la . Ngô Chí Đan bị cách chức, tước danh hiệu Công an nhân dân.
7. Trịnh Vĩnh Bình vô tội
Ngày 4-12-1996, một thân nhân của TVB là Trịnh Hiền Thanh vu cáo TVB đưa hối lộ, khiến cho TVB bị bắt giam. Việc vu cáo nằm trong âm mưu của công an BR/VT.
Đến ngày 24-6-2002, Trịnh Hiền Thanh thú nhận bằng văn bản là y đã vu cáo cho TVB. Hiền Thanh chết vài năm sau đó do bịnh tiểu đường.
Qua bút phê của Phan Văn Khải cũng là một bằng chứng cụ thể TVB không có tội. Qua lời phát biểu của bà Nguyễn Thị Bình, Phó chủ tịch nước, tại QH và qua Trung Ương đảng tuyên bố thi hành kỷ luật đảng bộ Vủng Tàu và qua lời xác nhận của Ngoại trưởng Nguyễn Dy Niên với các quan chức Hoà Lan, là vụ án có nhiều sai trái. Tất cả đều chứng tỏ TVB vô tội. Đó là những bằng chứng mà TVB sẽ xử dụng tại Tòa án QT, để chứng minh rằng mình vô tội, và đòi bồi thường 100 triệu USD.
8. Vụ án kinh tế biến thành chính trị
Phòng cảnh sát điều tra PA24 do trung tá Ngô Chí Đan làm trưởng phòng, đã nhận hối lộ và cũng thừa cơ hội đó, thực hiện âm mưu cướp tài sản của TVB. Thế lực của Ngô Chí Đan rất mạnh, và có ô dù ở trên bao che, cho nên thường tống tiền các doanh nhân, cụ thể là trong vụ án Phương Vicarrent, đã tống tiền 100,000 đô la . Ngô Chí Đan bị cách chức, tước danh hiệu Công an nhân dân.
Trung tá Ngô Chí Đan và anh vợ là Phạm Văn Phương đã trở thành 2 “ông trùm” ở địa phương. Vì TVB không biết luật giang hồ ở BR/VT, đã không “thần phục”, không làm lễ ra mắt ông trùm, không “cống nạp”, cho nên đã trở thành nạn nhân, bị tù và tịch thu tài sản.
Trong xã hội VN, làm ăn lương thiện thì bị nạn là thế. Cũng đừng ỷ lại vào việc cống nạp cho cấp trên là đủ. Phải nhớ qui luật, phép vua thua lệ làng mới tồn tại an toàn được.
Trung tá Ngô Chí Đan là đàn em của Thứ trưởng CA Nguyễn Khánh Toàn, ngoài ra, từ Tổng bí thư đảng cho đến những chức vụ lãnh đạo, Ngô Chí Đan quen lớn trên vài chục người.
Một bí mật ít người biết đến là, khi một Việt kiều về nước đầu tư, làm ăn, đều bị bí mật giám sát chặt chẽ của an ninh CS. Ban đầu chỉ là một vụ có mục đích tống tiền, xét công ty và nhà để lấy vàng và tiền mặt, nhưng vì áp lực bên trên khá mạnh, cho nên vụ án kinh tế đã biến thành vụ án chính trị.
Bắt đầu, TVB là một đảng viên của đảng Dân Chủ Tự Do của Hoà Lan, do đó, TVB bị ghép vào tội làm gián điệp. Những bằng chứng được ngụy tạo, kế hoạch được dàn dựng, khiến cho những người cho rằng TVB vô tội như Phan Văn Khải, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Dy Niên, Nguyễn Mạnh Cầm đều lạnh cẳng, thụt lùi.
Những chứng cớ được ngụy tạo như việc TVB đã gặp Thủ tướng Phan Văn Khải và Chủ tịch UBND tỉnh BR/VT Nguyễn Trọng Minh, để móc nối, lôi kéo, mua chuộc làm gián điệp. Thật sự, có việc gặp gỡ, đưa tiền, nhưng đó không phải là gián điệp, mà là một hình thức “bôi trơn” phong bì để làm ăn dễ dàng. Nhưng rất tiếc là TVB không biết bôi trơn ở địa phương, cho nên mới ra nông nỗi. Bị nắm tẩy, cho nên Phan Văn Khải không dám tiếp tục can thiệp nữa. Trong vụ TVB, Nguyễn Trọng Minh bị mất chức Chủ tịch UBND tỉnh BR/VT.
9. Bí mật bao trùm quanh vụ đào thoát
Bí mật bao trùm chung quanh việc TVB đào thoát khỏi VN. Một người bị kết án 11 năm tù giam mà làm thế nào để lên phi cơ bay về Hoà Lan cho được?
Mới đây, ngày 7-4-2011, Trưởng cục thi hành án dân sự tỉnh BR/VT tên Trần Văn Mười cùng 2 tên Lê Huy Hoàng và Hoàng Anh Linh bị bắt giam về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Ba người bị bắt đã vi phạm nghiêm trọng trong vụ án Trịnh Vĩnh Bình “dẫn đến việc khiếu kiện lâu dài”.
Nhóm từ “Dẫn đến khiếu kiện lâu dài” có thể hiểu là gồm cả việc để cho TVB đào thoát mới có khiếu kiện lâu dài. Bài báo không nêu đích danh lý do nào khiến cho 3 người bị bắt, nhưng đã nêu một trường hợp tương tự là 3 người đã ngâm bản án hơn 2 năm, không thi hành phán quyết của toà án. Cũng tương tự như TVB bị kếu án 13 năm tù giam mà vẫn nằm nhà thoải mái.
Thế nhưng cũng có điều lạ khó hiểu, là tại sao vụ việc xảy ra từ 1998 cho đến nay là 13 năm, 3 đương sự mới bị bắt?
10. Kiện ra Toà Quốc Tế
Ngày 15-10-2003, vụ án bước sang giai đoạn mới, vượt ra khỏi phạm vi hai nước VN và HL, ông Trịnh Vĩnh Bình đã chính thức nhờ Tổ hợp Luật sư Covington Burling, có trụ sở ở Anh và Hoa Kỳ, đứng ra kiện nhà cầm quyền VN đòi bồi thường 100 triệu đô la Mỹ, trong khi số vốn đầu tư mang về VN khoảng 4 triệu.
Phụ trách vụ án, Tổ hợp Covington Burling có 1 luật sư đứng tòa, 3 luật sư lo hồ sơ, 2 thông dịch viên, 2 thư ký. Riêng TVB có một luật sư VN phụ trách liên lạc giữa TVB với Tổ hợp luật sư Mỹ. Ông TVB ký quỹ 150 ngàn USD.
Đầu tiên, luật sư Thomas Johnson, đại diện cho TVB gởi thơ cho Viện trưởng Viện Kiểm Sát ND Tối Cao VN là Hà Minh Trí, đề nghị dàn xếp giữa hai bên.
Nổ lực dàn xếp kéo dài gần 2 năm không có kết quả.
Tháng 5 năm 2004, TVB chính thức nạp đơn lên Toà Án QT thuộc Liên Hiệp Quốc. Toà án thụ lý và sẽ mở phiên tòa xét xử tại Stockholm, Thủ đô Thụy Điển vào cuối năm 2005. Tòa nầy gồm 3 thẩm phán, một người Thụy Điển, một người gốc Mỹ và một gốc Pháp.
Phía CSVN, cũng đã ký quỹ 150 ngàn USD để nhờ Tổ hợp luật sư Pháp Glide Loyrette Rouel, có văn phòng tại Hà Nội. Việc nầy chứng tỏ CSVN chấp nhận việc bồi thường 100 triệu USD cho TVB, nếu bị thua kiện.
Toà Án QT thông báo sẽ mở ra xét xử từ ngày 4-12-2005 đến 12-12-2005.
Ba tuần lễ trước phiên xử, Tổ hợp luật sư Mỹ thấy chắc ăn, cho nên tăng số tiền đòi bồi thường lên thành 150 triệu USD. Viện dẫn lý do là dựa theo thời giá mới.
Tham dự phiên toà
VN là bị cáo, nếu không tham dự phiên toà thì bị mất quyền tự bào chữa. Nếu vắng mặt thì bị xử khiếm diện và buộc phải tuân theo phán quyết của toà án.
Do kinh nghiệm lần trước, vụ một luật sư người Ý, ông Manizio Liberato kiện hảng hàng không VNAirlines, phía VN thua kiện mà không chịu bồi thường, tưởng rằng không có ai dám vào VN đòi tiền, cho nên tất cả các chương mục của VNAirlines ở các ngân hàng châu Âu bị phong toả để trả tiền bồi thường.
Toà Án Quốc Tế tạm hoãn.
Đáng lẽ Toà sẽ mở phiên xử từ ngày 4-12-2005 đến 12-12-2005, nhưng Toà tuyên bố tạm hoãn, vì lý do hai bên thỏa thuận dàn xếp bên ngoài Tòa.
Thế mạnh của Trịnh Vĩnh Bình
Đúng thời cơ
Đó là cuối năm 2006, VN có thể được gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới (World Trade Organization=WTO) là cơ hội để được tham gia vào sinh hoạt của nền Kinh tế Thị trường tự do của chế độ tư bản. Vì kinh tế quốc doanh XHCN không ai muốn giao dịch và bị tư bản chèn ép về tội bán phá giá. Từ đó, VN sẽ có điều kiện dễ dàng ký những Hiệp ước thương mại với các quốc gia khác, mà VN rất muốn mở cửa, hội nhập.
VN rất cần có nguồn vốn, cho nên kêu gọi ngoại quốc đầu tư do đó, phải từ bỏ bớt thói quen ngang tàng bướng bỉnh cố hữu. Đành phải chịu nhượng bộ, đó là thời cơ thuận lợi cho vụ án của TVB.
Trịnh Vĩnh Bình vô tội
Chính những văn bản và tài liệu chính thức của các quan chức VN đã xác nhận TVB vô tội. Cụ thể là bút phê của Thủ tướng Khải. Chính Ngoại trưởng Nguyễn Dy Niên thừa nhận với quan chức Hòa Lan “Có sự sai sót trong vụ án TVB và hứa sẽ yêu cầu các cơ quan chức năng điều tra lại”.
CQVN muốn dàn xếp bên ngoài Toà án, vì ở đó, số tiền bồi thường có thể được giữ bí mật. Hơn nữa, bị Toà án xử có tội, và ra lịnh phạt tiền bồi thường thì mất mặt quá. VN muốn còn chút đỉnh thể diện để mạnh dạn kêu gọi hùn hạp làm ăn. Nếu bản án được loan truyền khắp thế giới thì còn mặt mũi gì nữa.
Kết:
Ông Trịnh Vĩnh Bình đã giữ lời hứa với nhà cầm quyền VN là không tiết lộ số tiền mà VN bồi thường.
Trúc Giang
Minnesota ngày 28-11-2011
Thứ Tư, 16 tháng 8, 2017
Đẹp, nguy hiểm.
Tổng cộng chiến công trong tấm hình này là 775 mạng địch quân đã bị bắn chết bởi những người đẹp cuả Lữ đoàn 3 xung kích, Phương diện quân thứ Nhất - Belarussia (số địch quân đã được kiểm chứng đúng).
Hàng đầu từ trái qua,
Trung sỹ nhất VN Stepanov, bắn chết 20. Trung sỹ JP Belousov, bắn chết 80. Trung sỹ AE Vinogradov, bắn chết 83.
Hàng thứ nhì,
Thượng sỹ EK Zhibovskaya, bắn chết 24. Trung sỹ KF Marinkin, bắn chết 79. Trung sỹ OS Marenkina, bắn chết 70.
Hàng thứ ba,
Thượng sỹ NP Belobrova, bắn hạ 70. Thượng sỹ N. Lobkovsky, bắn chết 89. Thượng sỹ VI Artamonov, bắn chết 89. Trung sỹ nhất MG Zubchenko, bắn hạ 83.
Hàng thứ tư,
Trung sỹ NP Obukhov, bắn chết 64. Trung sỹ AR Belyakov, bắn hạ 24 địch.
Ảnh chụp ở Đức, ngày 4 tháng 5 năm 1945.
Các nữ xạ thủ bắn tỉa của Lữ đoàn 3 xung kích, thuộc phương diện quân 1/ Belorussian. Lữ đoàn xung kích được tổ chức với mục tiêu cụ thể là mũi nhọn tấn công và tiêu diệt các lực lượng địch quan trọng, khi cần thiết có thể được ưu tiên tăng cường với cả xe tăng và pháo binh hơn các đơn vị vũ trang khác.
Trở ngại trong việc tìm đủ số quân nhân nam giới phục vụ trong quân đội và công nghệ, nhà nước Xôviết đã tuyển mộ 7,75 triệu nữ giới, trong đó có 800,000 người phục vụ trong quân đội. Bắn tỉa là công việc cần sự chính xác tỉ mỉ, rất hợp với kỹ năng của nữ giới. Vào năm 1943 đã có hơn 2,000 tay súng bắn tỉa nữ trong lực lượng vũ trang Liên Xô, những tay súng bắn tỉa nữ đã được ghi nhận với hơn 12.000 xác địch quân bị giết.
Liên bang Xô viết đã sử dụng phụ nữ trong bắn tỉa rất nhiều, quân đội Sôviết đã nhận ra phụ nữ rất hợp với nhiệm vụ bắn tỉa, tính kiên nhẫn, cẩn thận, kiên định, luôn tránh lộ diện đối đầu trực tiếp, cơ thể chịu đựng được nhiều điều kiện khó khăn. Thần kinh và kỹ năng của phụ nữ rất hợp chuẩn cho sự chính xác trong việc bắn tỉa. Thiếu tướng Morozov, "cha đẻ của chương trình bắn tỉa" đã từng nhận xét: ''bàn tay phụ nữ nhạy cảm hơn nam giới, vì thế khi bóp cò ngón tay trỏ của cô ta sẽ bắn nhạy hơn và chính xác hơn''.
Việc sử dụng lực lượng bắn tỉa thành công nhất của Liên Xô trong Thế chiến II là trong giai đoạn phòng thủ của chiến tranh (1941-1943), sau khi Liên xô phản công, lợi thế đã chuyển sang phía Đức và các tay súng bắn tỉa của Đức đã trở thành mối nguy thực sự đối với các đơn vị quân Liên Xô trên đà phản công.
Theo học thuyết quân sự của Liên Xô, họ sử dụng những tay bắn tỉa để dùng như hoả lực đe doạ từ xa, và tiêu diệt mục tiêu khi có cơ hội, đặc biệt là các sỹ quan, bởi vì trong Thế chiến II, các nhà lãnh đạo quân sự Liên Xô nhận ra rằng địch sẽ gặp khó khăn trong việc thay thế các sĩ quan trong thời chiến. Họ cũng phát hiện ra rằng chi phí cho một khẩu súng trường bắn tỉa đắt tiền và dễ hư hỏng thì cũng bằng với chi phí đào tạo một chiến binh huấn luyện kỹ lưỡng và trang bị một khẩu súng trường tấn công sản xuất hằng loạt giá rẻ, họ đã bám theo học thuyết này. (Điều này dẫn đến việc Đức vượt hơn Liên xô về bắn tỉa trong phần cuối cuộc chiến)
42, Chuyển ngữ từ Rare Historical Photos.
Thứ Sáu, 11 tháng 8, 2017
Tình vụn.
Chiều nay bất ngờ nhìn thấy một phụ nữ trung niên người Ấn đang chờ đèn để sang đường trên đất Mỹ, chợt chạnh lòng nhớ lại chút tình vương vấn ở Tây ninh thời trai trẻ.
Bọn tôi, những thằng lính trẻ lãnh lương ra chỉ huy hoàng được tối đa là một tuần, ba tuần còn lại là thê lương với ăn thiếu nợ, ký sổ. Lương lính ra khỏi bàn phát lương là hết, bọn chủ nợ chờ ngay ngoài cửa phòng lương, số tiền ít ỏi còn lại chỉ đủ cho vài ngày huy hoàng, rồi lại tiếp tục rơi vào vòng nợ nần-ký sổ.
Đấy là nói nếu ở hậu cứ, bọn câu lạc bộ biết mình mới cho ăn thiếu, còn đi công tác dân bỏn biết chúng tôi là ai mà cho nợ nần? Thế, bọn tôi phải tự cứu mình, toán đi thường 4 thằng, chia nhau ra đi đến đâu là phải tìm cách cua gái kiếm ăn, đừng nghĩ bọn trai trẻ chúng tôi vô tình, yêu cũng thật đấy, nhưng đói thì cấp thiết hơn nhiều, hí hí
Tôi quen em cũng trong dịp tình cờ, nhà em là tiệm bán tạp hoá ngay dưới chân cầu của con kinh cắt ngang giữa lòng thị trấn, bên con lộ chính của thành phố, đầu dãy nhà buôn dọc theo con phố chính, phiá hông nhà em là con đường hẻm dọc kinh dẫn vào khu động đĩ mà bọn kính tráng hay lui tới. Hôm đó tôi cần mua cục xà bông thơm cô Ba nên ghé vào mua, thả dê, tán tỉnh và thế là dính!
Em tên Nê, chả biết tiếng Ấn nghĩa gì, nhưng nghe chẳng có tý ấn tượng! người gầy ngẳng đen và hơi ngố, chắc ông bà già giữ kỹ quá nên ít tiếp xúc với người ngoài. Khuôn mặt điển hình của Ấn với đôi mắt sâu lông mày rậm và đen nháy, mũi cao quá nên nhìn hơi dữ tuy rằng em hiền khô. Em chỉ có mỗi dáng cao quá khổ là hơi khác bọn gái Việt, còn lại thì em đặc kiểu miền Nam, chẳng khác gì bọn gái mà tôi chọc ghẹo hằng ngày, hàng họ cũng đâu ra đấy.
Chắc vì bị giữ kỹ quá, khi tôi thả dê là em đổ liền, nhà em ngay bờ kinh nên hẹn hò cũng dễ, căn nhà hai mặt tiền nên mặt dọc bờ kinh có cửa phụ, cứ thế em lẻn ra và bọn tôi tà tà dọc bờ kinh với những hàng quán bán đêm, em lúc nào cũng cả nắm tiền trong túi cầm theo chi trả, không bao giờ để tôi lo lắng vấn đề chi tiêu, hí hí
Tôi lâu cũng ghé tiệm em ban ngày, thấy ông già Ấn đứng bán hàng là biến, nếu em đứng quầy, ghé vào thế nào cũng một mớ nhu yếu phẩm gói mang về, bọn tôi xài kem đánh răng, xà bông, thuốc hút thoải mái. Những lúc đói, nháy em là em chỉ ra ki ốt bánh mì đầu cầu, nơi em đã bảo kê cho tôi. Cạnh những khu vực bến xe trong Nam luôn có những quầy bánh mì mà ổ to như bắp đùi, gọi là bánh mì bến xe, ai trong Nam đều biết. Một ổ bánh mì bến xe nhồi thịt, phải hai thằng ăn khoẻ mới ăn hết, tôi có tiêu chuẩn muốn nhiêu lấy nhiêu, chủ ki ốt không hỏi!
Cho đến một hôm, em buồn buồn thông báo làm tôi cũng lo, ông già em nghi ngờ, chắc sẽ khó khăn cho hẹn hò. Tuy vậy, cấm đoán thế nào thì cấm, bằng cách nào đó em vẫn trốn ra đi chơi, ăn uống hẹn hò và mang nhu yếu phẩm tiếp tế cho tôi.
Cuộc tình chấm dứt đột ngột giống như nó đến! Giải phóng, chúng tôi thế là bặt tin nhau, để giờ đây chiều hôm qua chợt thấy một bà sồn sồn người Ấn đứng chờ sang đường ở góc ngã tư, chạnh nhớ em giờ trôi nổi phương nào?
42.
Bọn tôi, những thằng lính trẻ lãnh lương ra chỉ huy hoàng được tối đa là một tuần, ba tuần còn lại là thê lương với ăn thiếu nợ, ký sổ. Lương lính ra khỏi bàn phát lương là hết, bọn chủ nợ chờ ngay ngoài cửa phòng lương, số tiền ít ỏi còn lại chỉ đủ cho vài ngày huy hoàng, rồi lại tiếp tục rơi vào vòng nợ nần-ký sổ.
Đấy là nói nếu ở hậu cứ, bọn câu lạc bộ biết mình mới cho ăn thiếu, còn đi công tác dân bỏn biết chúng tôi là ai mà cho nợ nần? Thế, bọn tôi phải tự cứu mình, toán đi thường 4 thằng, chia nhau ra đi đến đâu là phải tìm cách cua gái kiếm ăn, đừng nghĩ bọn trai trẻ chúng tôi vô tình, yêu cũng thật đấy, nhưng đói thì cấp thiết hơn nhiều, hí hí
Tôi quen em cũng trong dịp tình cờ, nhà em là tiệm bán tạp hoá ngay dưới chân cầu của con kinh cắt ngang giữa lòng thị trấn, bên con lộ chính của thành phố, đầu dãy nhà buôn dọc theo con phố chính, phiá hông nhà em là con đường hẻm dọc kinh dẫn vào khu động đĩ mà bọn kính tráng hay lui tới. Hôm đó tôi cần mua cục xà bông thơm cô Ba nên ghé vào mua, thả dê, tán tỉnh và thế là dính!
Em tên Nê, chả biết tiếng Ấn nghĩa gì, nhưng nghe chẳng có tý ấn tượng! người gầy ngẳng đen và hơi ngố, chắc ông bà già giữ kỹ quá nên ít tiếp xúc với người ngoài. Khuôn mặt điển hình của Ấn với đôi mắt sâu lông mày rậm và đen nháy, mũi cao quá nên nhìn hơi dữ tuy rằng em hiền khô. Em chỉ có mỗi dáng cao quá khổ là hơi khác bọn gái Việt, còn lại thì em đặc kiểu miền Nam, chẳng khác gì bọn gái mà tôi chọc ghẹo hằng ngày, hàng họ cũng đâu ra đấy.
Chắc vì bị giữ kỹ quá, khi tôi thả dê là em đổ liền, nhà em ngay bờ kinh nên hẹn hò cũng dễ, căn nhà hai mặt tiền nên mặt dọc bờ kinh có cửa phụ, cứ thế em lẻn ra và bọn tôi tà tà dọc bờ kinh với những hàng quán bán đêm, em lúc nào cũng cả nắm tiền trong túi cầm theo chi trả, không bao giờ để tôi lo lắng vấn đề chi tiêu, hí hí
Tôi lâu cũng ghé tiệm em ban ngày, thấy ông già Ấn đứng bán hàng là biến, nếu em đứng quầy, ghé vào thế nào cũng một mớ nhu yếu phẩm gói mang về, bọn tôi xài kem đánh răng, xà bông, thuốc hút thoải mái. Những lúc đói, nháy em là em chỉ ra ki ốt bánh mì đầu cầu, nơi em đã bảo kê cho tôi. Cạnh những khu vực bến xe trong Nam luôn có những quầy bánh mì mà ổ to như bắp đùi, gọi là bánh mì bến xe, ai trong Nam đều biết. Một ổ bánh mì bến xe nhồi thịt, phải hai thằng ăn khoẻ mới ăn hết, tôi có tiêu chuẩn muốn nhiêu lấy nhiêu, chủ ki ốt không hỏi!
Cho đến một hôm, em buồn buồn thông báo làm tôi cũng lo, ông già em nghi ngờ, chắc sẽ khó khăn cho hẹn hò. Tuy vậy, cấm đoán thế nào thì cấm, bằng cách nào đó em vẫn trốn ra đi chơi, ăn uống hẹn hò và mang nhu yếu phẩm tiếp tế cho tôi.
Cuộc tình chấm dứt đột ngột giống như nó đến! Giải phóng, chúng tôi thế là bặt tin nhau, để giờ đây chiều hôm qua chợt thấy một bà sồn sồn người Ấn đứng chờ sang đường ở góc ngã tư, chạnh nhớ em giờ trôi nổi phương nào?
42.
Thứ Ba, 8 tháng 8, 2017
Con Hoa
Nó thuộc lớp gái bị thiệt thòi nhiều nhất, vừa lớn trổ mã thì giải phóng, đám dân trong xứ đạo ngơ ngác, bọn gái mới lớn thì mất mẹ nó đối tượng yêu đương, đám lính trẻ tan hàng lơ ngơ như chó lạc, bọn bộ đội vc thì có đi lại giao lưu nhưng không đứa nào dám tò tí, chắc được bọn chính trị viên cảnh cáo không giao thiệp với đám giáo dân trong giáo xứ.
Điều quan trọng nữa là con Hoa không đẹp gái, chỉ loại làng nhàng, nhà lại nghèo nữa, thế! Cuối cùng nghe theo tiếng gọi đoàn thanh niên, nó đăng đi thanh niên xung phong, năm đó 1975 nó vừa 18 tuổi.
Nó tính đúng, ra quân cuỗm theo được một thằng nhìn hơi ngơ ngáo nhưng được trai, hai vơ chồng về dân sự hai vợ chồng chí thú làm ăn, đẻ sòn sòn. Nó bán gánh bún riêu, chồng thợ đụng-đụng đâu làm đó-hai vợ chồng cứ thế cun cút làm ăn.
Con Hoa có cái đam mê mà phần lớn bọn gái Nam kỳ vướng, là bài tứ sắc, mấy quân bài nhỏ bằng ngón tay út xanh xanh đỏ đỏ thế mà nó có thể ngồi cả ngày, không màng ăn uống, con cái.
Đứa con gái tầm 1 tuổi, bò vòng quanh mũi dãi, con mẹ cứ thế chăm chú vào mấy quân bài, đứa bé khóc đòi sữa, con Hoa cứ một tay xoè bài, tay kia vạch áo, cái áo chỉ cài hai nút dưới phiá trên lúc nào cũng trễ ra hững hờ, nó kéo bầu vú bên trái quặt ra đằng sau, con bé con chừng cũng quen với kiểu bú này, bò đến tợp ngay rồi cứ thế, mẹ ngồi xoè bài, một bên kẹp vú quặt ra sau, con lổm ngổm đằng sau chu mỏ lên bú.
Năm ngoái tôi về lại xứ đạo thăm chú em, tha thẩn đi vào ngõ sau nhà thờ xứ, gặp lại gánh bún con Hoa vẫn đó, giờ con gái nó đã ngồi bán bún thay mẹ, nghĩ lại cặp vú mướp mẹ nó ngày nào, nó đon đả mời bác ăn bún mà thèn thẹn trong bụng! hí hí
Điều quan trọng nữa là con Hoa không đẹp gái, chỉ loại làng nhàng, nhà lại nghèo nữa, thế! Cuối cùng nghe theo tiếng gọi đoàn thanh niên, nó đăng đi thanh niên xung phong, năm đó 1975 nó vừa 18 tuổi.
Nó tính đúng, ra quân cuỗm theo được một thằng nhìn hơi ngơ ngáo nhưng được trai, hai vơ chồng về dân sự hai vợ chồng chí thú làm ăn, đẻ sòn sòn. Nó bán gánh bún riêu, chồng thợ đụng-đụng đâu làm đó-hai vợ chồng cứ thế cun cút làm ăn.
Con Hoa có cái đam mê mà phần lớn bọn gái Nam kỳ vướng, là bài tứ sắc, mấy quân bài nhỏ bằng ngón tay út xanh xanh đỏ đỏ thế mà nó có thể ngồi cả ngày, không màng ăn uống, con cái.
Đứa con gái tầm 1 tuổi, bò vòng quanh mũi dãi, con mẹ cứ thế chăm chú vào mấy quân bài, đứa bé khóc đòi sữa, con Hoa cứ một tay xoè bài, tay kia vạch áo, cái áo chỉ cài hai nút dưới phiá trên lúc nào cũng trễ ra hững hờ, nó kéo bầu vú bên trái quặt ra đằng sau, con bé con chừng cũng quen với kiểu bú này, bò đến tợp ngay rồi cứ thế, mẹ ngồi xoè bài, một bên kẹp vú quặt ra sau, con lổm ngổm đằng sau chu mỏ lên bú.
Năm ngoái tôi về lại xứ đạo thăm chú em, tha thẩn đi vào ngõ sau nhà thờ xứ, gặp lại gánh bún con Hoa vẫn đó, giờ con gái nó đã ngồi bán bún thay mẹ, nghĩ lại cặp vú mướp mẹ nó ngày nào, nó đon đả mời bác ăn bún mà thèn thẹn trong bụng! hí hí
Thứ Hai, 7 tháng 8, 2017
Mụ Jane đáng khinh.
Thư của Michael Benge
thưa qúy vị,
Tôi là một cố vấn phát triển kinh tế dân sự ở Việt Nam, và bị Cộng sản Bắc Việt bắt ở Nam Việt Nam năm 1968, và đã bị cầm tù trong hơn 5 năm, tôi đã trải qua 27 tháng biệt giam, một năm nhốt trong cũi ở Campuchia, và một năm ở "phòng tối" tại Hà Nội.
Những người cai tù Bắc Việt đã cố ý đầu độc và giết chết một nữ truyền giáo-một y tá ở trại cùi Ban Mê Thuột Nam Việt Nam, người mà chính tay tôi đã chôn cô ta trong rừng gần biên giới Campuchia.
Đã có thời tôi chỉ cân nặng khoảng 40kg (Trọng lượng bình thường của tôi là 70kg). Chúng tôi bị Jane Fonda gọi là "bọn tội phạm chiến tranh". Khi Jane Fonda ở Hà Nội, tôi đã được các viên chức chính trị cộng sản trại giam sắp đặt gặp Jane Fonda. Tôi đồng ý vì tôi muốn nói với cô ấy về những đối xử thực sự mà chúng tôi đã nhận được, điều này khác xa với các tuyên truyền từ Bắc Việt, và được nhai lại bởi Jane Fonda là "nhân đạo và khoan dung".
Bởi vì sự thật này, tôi đã bị qùy ba ngày trên sàn đá bằng đầu gối với hai cánh tay dang ra bàn tay cầm hai miếng thép, mỗi khi cánh tay mỏi trễ xuống tôi bị đánh bằng gậy tre. Jane Fonda đã mặt dầy mày dạn để nói rằng những tù binh chiến tranh đã nói dối về tra tấn và cách bị đối xử.
Giờ đây, đài ABC đang cho Barbara Walters tôn vinh Jane Fonda trong chương trình "100 năm, những phụ nữ vĩ đại". Đáng khinh bỉ, xấu hổ Jane Fonda! Xấu hổ, đáng khinh bỉ cho Barbara Walters! thật đáng khinh bỉ show 20-20, đài ABC và toàn bộ công ty Disney.
Tôi đã có cơ hội gặp Jane Fonda trong vài giờ sau khi tôi được thả ra (năm 1973), tôi hỏi cô ấy liệu cô ấy có sẵn sàng tranh luận với tôi trên TV hay không? Cô ấy đã không trả lời tôi nhưng chồng cô, Tom Hayden đã trả lời thay cho cô ấy, cô này bị kiểm soát tâm trí bởi chồng cô ấy?
Jane Fonda không nên được tôn vinh trong chương trình "100 năm, những phụ nữ vĩ đại". Sau khi tôi được thả, được hỏi tôi nghĩ gì về Jane Fonda và phong trào chống chiến tranh, tôi đã nói rằng tôi đã tôn trọng chồng của Joan Baez, vì khi ông nghĩ rằng chiến tranh là sai, đã tự đốt lệnh gọi nhập ngũ của ông và vào trại giam để phản đối.
Nếu những người biểu tình chống chiến tranh khác đi theo con đường tương tự, nó đã đưa hệ thống tư pháp của chúng ta dừng lại và chấm dứt chiến tranh sớm hơn nhiều, và sẽ không có nhiều tên trên bức tường đá đen này tên là Tượng đài Việt Nam, đây là chế độ dân chủ và đây là cách của Mỹ.
Jane Fonda, ngược lại đã chọn làm kẻ phản quốc và đi đến Hà Nội, mặc đồng phục VC, tuyên truyền cho cộng sản, và kêu gọi lính Mỹ đào ngũ. Trong khi chúng tôi bị tra tấn, và một số tù binh bị sát hại, cô ta gọi chúng tôi là những kẻ dối trá.
Sau khi các anh hùng của cô ta - bọn Cộng sản Bắc Việt - chiếm miền Nam Việt Nam, họ đã giết hại 80.000 tù nhân chính trị Nam Việt Nam một cách có hệ thống, hãy để cho linh hồn của họ yên nghỉ trong tâm trí cô mãi mãi. Xấu hổ! đáng xấu hổ!
Trân trọng,
Michael D. Benge
Kính chuyển: ông Eisner, giám đốc Walt Disney
Mike Benge bị bắt từ 28/1/68 - 5/3/73
(http://www.1stcavmedic.com/shame_on_jane.htm)
thưa qúy vị,
Tôi là một cố vấn phát triển kinh tế dân sự ở Việt Nam, và bị Cộng sản Bắc Việt bắt ở Nam Việt Nam năm 1968, và đã bị cầm tù trong hơn 5 năm, tôi đã trải qua 27 tháng biệt giam, một năm nhốt trong cũi ở Campuchia, và một năm ở "phòng tối" tại Hà Nội.
Những người cai tù Bắc Việt đã cố ý đầu độc và giết chết một nữ truyền giáo-một y tá ở trại cùi Ban Mê Thuột Nam Việt Nam, người mà chính tay tôi đã chôn cô ta trong rừng gần biên giới Campuchia.
Đã có thời tôi chỉ cân nặng khoảng 40kg (Trọng lượng bình thường của tôi là 70kg). Chúng tôi bị Jane Fonda gọi là "bọn tội phạm chiến tranh". Khi Jane Fonda ở Hà Nội, tôi đã được các viên chức chính trị cộng sản trại giam sắp đặt gặp Jane Fonda. Tôi đồng ý vì tôi muốn nói với cô ấy về những đối xử thực sự mà chúng tôi đã nhận được, điều này khác xa với các tuyên truyền từ Bắc Việt, và được nhai lại bởi Jane Fonda là "nhân đạo và khoan dung".
Bởi vì sự thật này, tôi đã bị qùy ba ngày trên sàn đá bằng đầu gối với hai cánh tay dang ra bàn tay cầm hai miếng thép, mỗi khi cánh tay mỏi trễ xuống tôi bị đánh bằng gậy tre. Jane Fonda đã mặt dầy mày dạn để nói rằng những tù binh chiến tranh đã nói dối về tra tấn và cách bị đối xử.
Giờ đây, đài ABC đang cho Barbara Walters tôn vinh Jane Fonda trong chương trình "100 năm, những phụ nữ vĩ đại". Đáng khinh bỉ, xấu hổ Jane Fonda! Xấu hổ, đáng khinh bỉ cho Barbara Walters! thật đáng khinh bỉ show 20-20, đài ABC và toàn bộ công ty Disney.
Tôi đã có cơ hội gặp Jane Fonda trong vài giờ sau khi tôi được thả ra (năm 1973), tôi hỏi cô ấy liệu cô ấy có sẵn sàng tranh luận với tôi trên TV hay không? Cô ấy đã không trả lời tôi nhưng chồng cô, Tom Hayden đã trả lời thay cho cô ấy, cô này bị kiểm soát tâm trí bởi chồng cô ấy?
Jane Fonda không nên được tôn vinh trong chương trình "100 năm, những phụ nữ vĩ đại". Sau khi tôi được thả, được hỏi tôi nghĩ gì về Jane Fonda và phong trào chống chiến tranh, tôi đã nói rằng tôi đã tôn trọng chồng của Joan Baez, vì khi ông nghĩ rằng chiến tranh là sai, đã tự đốt lệnh gọi nhập ngũ của ông và vào trại giam để phản đối.
Nếu những người biểu tình chống chiến tranh khác đi theo con đường tương tự, nó đã đưa hệ thống tư pháp của chúng ta dừng lại và chấm dứt chiến tranh sớm hơn nhiều, và sẽ không có nhiều tên trên bức tường đá đen này tên là Tượng đài Việt Nam, đây là chế độ dân chủ và đây là cách của Mỹ.
Jane Fonda, ngược lại đã chọn làm kẻ phản quốc và đi đến Hà Nội, mặc đồng phục VC, tuyên truyền cho cộng sản, và kêu gọi lính Mỹ đào ngũ. Trong khi chúng tôi bị tra tấn, và một số tù binh bị sát hại, cô ta gọi chúng tôi là những kẻ dối trá.
Sau khi các anh hùng của cô ta - bọn Cộng sản Bắc Việt - chiếm miền Nam Việt Nam, họ đã giết hại 80.000 tù nhân chính trị Nam Việt Nam một cách có hệ thống, hãy để cho linh hồn của họ yên nghỉ trong tâm trí cô mãi mãi. Xấu hổ! đáng xấu hổ!
Trân trọng,
Michael D. Benge
Kính chuyển: ông Eisner, giám đốc Walt Disney
Mike Benge bị bắt từ 28/1/68 - 5/3/73
(http://www.1stcavmedic.com/shame_on_jane.htm)
Giải cứu bất thành.
Câu chuyện giải cứu Benge.
Tối 28/1/1968, Michael Benge, 37 tuổi leo lên chiếc xe Jeep, tự lái từ nhà lên thị xã Buôn Mê Thuột. Là nhân viên của cơ quan Phát triển Quốc tế (USAID), công việc chính là cố vấn những kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến cho nông dân Việt Nam. Là nhân viên dân sự, Michael Benge vẫn chưa biết gì mấy về trận tổng công kích Tết Mậu Thân cho đến khi một toán du kích vũ trang xuất hiện, chặn xe anh ta lại và lôi anh ra khỏi xe.
Mặc dù bị trói tay, Benge vẫn cố gắng thuyết phục người chỉ huy toán VC rằng anh ta chẳng dính dáng gì đến quân đội, anh chỉ là nhân viên dân sự làm việc cho chương trình phát triển nông nghiệp, họ bắt tháo giày để anh khỏi chạy trốn và dẫn giải anh đi, mỗi khi đi chậm lại là mũi súng AK lại thúc vào lưng giục anh đi tiếp, Benge bị coi như tù binh và bị áp giải sang đất Campuchia.
Sau đó toán quân áp giải Benge nhập vào với một toán tù binh khác, chừng 12 người gồm cả người Việt Nam và người Thượng, ngày hôm sau, Benge được đưa đến một trại tù binh của VC nằm sâu trong rừng, tại đây anh ta chứng kiến Tòa án Nhân dân Giải phóng xử tội tù binh, một số người Việt bị tuyên án là biệt kích, ác ôn, có nợ máu với dân, cả tội phản quốc, những người này bị xử bắn tại chỗ. Vài ngày sau, Benge có thêm những bạn tù Mỹ. Trong số tù binh bị giam giữ tại trại, có cả những người khoác áo thầy tu, lý luận của VC cho rằng trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam có phần can dự của những người tù binh này, không phân biệt dù họ khoác áo gì hay dưới danh nghĩa nào đi nữa.
Lý luận của họ càng có cơ sở khi một tù binh người Thượng trốn thoát, anh ta lập tức tìm đến đơn vị của “Nhóm cấp cứu hỗn hợp” (JPRC) thuộc lực lượng đặc biệt (SOG), cung cấp thông tin xác định vị trí trại tù binh của đối phương. SOG tức tốc ra lệnh cho 5 toán biệt kích cùng 3 đại đội thuộc lữ đoàn dù 173 của Mỹ hành quân tìm kiếm những công dân Mỹ bị đối phương bắt. Giải cứu tù binh là mục tiêu lớn nhất, thường xuyên nhất và lâu dài nhất của chiến dịch Bright Light (giải cứu tù binh) của biệt kích.
Ngày 18/2/1968, LLĐB thả 5 toán biệt kích vào khu vực mà tay chỉ điểm người Thượng và những chuyên viên của LLĐB vừa đánh dấu trên bản đồ. Bốn toán không tìm được gì, đến ngày thứ 3, toán do Trung sĩ Larry White làm trưởng toán, cùng Grant Bollenback và 4 biệt kích Thượng phát hiện được 1 cái hang, họ nghe có người nói tiếng Việt, toán biệt kích bò lên quan sát, họ đếm được chừng 25 lính Bắc Việt, nhưng đối phương đã biết có biệt kích xâm nhập, đang báo động dàn quân ra để lùng tìm. Toán biệt kích bắn xối xả, khiến cho đối phương phải lui ra khỏi hang, dưới hoả lực dữ dội của đồng đội che chắn, White cố chạy lên tìm những tù binh Mỹ, anh chỉ đủ thời gian chụp được 1 nắm giấy tờ, nhét vào áo rồi rút chạy. Sau đó nhờ trực thăng vũ trang yểm trợ, White dẫn toán di chuyển đến bãi đáp và được bốc trở về an toàn.
Ngày 18/2/1968, LLĐB thả 5 toán biệt kích vào khu vực mà tay chỉ điểm người Thượng và những chuyên viên của LLĐB vừa đánh dấu trên bản đồ. Bốn toán không tìm được gì, đến ngày thứ 3, toán do Trung sĩ Larry White làm trưởng toán, cùng Grant Bollenback và 4 biệt kích Thượng phát hiện được 1 cái hang, họ nghe có người nói tiếng Việt, toán biệt kích bò lên quan sát, họ đếm được chừng 25 lính Bắc Việt, nhưng đối phương đã biết có biệt kích xâm nhập, đang báo động dàn quân ra để lùng tìm. Toán biệt kích bắn xối xả, khiến cho đối phương phải lui ra khỏi hang, dưới hoả lực dữ dội của đồng đội che chắn, White cố chạy lên tìm những tù binh Mỹ, anh chỉ đủ thời gian chụp được 1 nắm giấy tờ, nhét vào áo rồi rút chạy. Sau đó nhờ trực thăng vũ trang yểm trợ, White dẫn toán di chuyển đến bãi đáp và được bốc trở về an toàn.
Qua phân tích những tài liệu mang về, LLĐB cho rằng trong số những người bị bắt có 3 công dân Mỹ là Benge, Olsen và Blood (Olsen là nữ y tá tình nguyện tại trại cùi, Blood là nhà giảng đạo làm việc tại trại cùi Ban mê Thuột), cả 3 người đều còn sống, tuy nhiên còn sống thì không có nghĩa là khỏe mạnh. Ba người bị xích chung lại với nhau, không được ăn uống đầy đủ, làm cho họ yếu đi để không đủ sức chạy trốn và cả 3 vẫn tiếp tục bị áp giải hướng đến khu vực biên giới Campuchia. Một tháng sau ngày bị bắt, Benge ngã bệnh sốt rét, rồi Betty cũng lên cơn sốt.
LLĐB vẫn tiếp tục tìm dấu vết của họ để giải cứu, thêm một tù binh Thượng khác lại trốn thoát, dựa vào tin tức người này cung cấp, ngày 7/4/1968, biệt kích mở cuộc đột kích vào trại tù binh với thêm lực lượng tham gia là trung đội thám báo thuộc chương trình Phượng Hoàng, họ tìm được một chiếc lán bỏ trống và dấu vết của 3 người Mỹ mới được di chuyển đi nơi khác, chỉ trước đó khoảng 2 ngày.
Đến giữa tháng 5, hai người Thượng nữa trốn thoát, báo cáo cho biết Blood, Benge và Olsen bị giam giữ ở một địa điểm cách Buôn Mê Thuột khoảng 60km về hướng nam, lần này biệt kích và toán Phượng Hoàng vào tìm thì chạm trán với một đơn vị cấp đại đội của VC và phải rút chạy. Năm ngày sau, LLĐB thả hai toán biệt kích khác vào tìm nhưng địch quân đã di chuyển trại giam tù binh đi nơi khác.
Mùa mưa năm 1968, Blood chết trong trại tù vì bệnh sưng phổi. Benge và Olsen bị suy dinh dưỡng trầm trọng, răng rụng tóc rụng, cộng thêm khắp cơ thể bị ghẻ ngứa lâu ngày không khỏi. Cuối tháng 11/1968, LLĐB thả toán biệt kích gồm 15 người từ Sở chỉ huy Nam (Buôn Mê Thuột) đi lùng tìm trại tù binh lần nữa theo tin tức tù vượt ngục cung cấp, toán đụng độ với địch trước khi tìm được đến trại giam, địch quân lại di chuyển trại giam đến nơi khác.
Trên đường di chuyển trại, sức khỏe của Betty ngày càng yếu, đi không nổi, cô chết và xác vùi đâu đó trong rừng biên giới Campuchia, riêng Benge sau khi di chuyển vào lãnh thổ Campuchia thì hoàn toàn bặt tin, tin tức về Benge sau này được chính Benge kể lại nhờ ăn rễ cây, côn trùng mà Benge mới sống đến ngày được trả tự do năm 1973, từ miền Bắc.
42, tổng hợp trên mạng.
Thứ Ba, 1 tháng 8, 2017
Tấn công ở vịnh Bắc bộ.
Ngày 02/08/1964
Tàu ngư lôi Bắc Việt tấn công tàu khu trục USS Maddox.
Tàu trinh sát của Mỹ đã hiện diện trên khắp vịnh Bắc bộ nhằm theo dõi các tín hiệu truyền tin và radar sau trận các khinh tốc đỉnh của VNCH đổ biệt kích tấn công các mục tiêu Bắc Việt trên đảo hòn Mê và hòn Ngư ngoài khơi bờ biển Bắc Việt trong chiến dịch Oplan 34A.
Khi giải mã các tín hiệu thông tin của phía Bắc Việt, các chuyên viên Mỹ tiên liệu là phía Bắc Việt đang chuẩn bị "các hoạt động quân sự", thuyền trưởng John Herrick của tàu Maddox đã đi đến kết luận có thể xảy ra tấn công trả đũa từ phiá địch, xin ý kiến thượng cấp, nhưng cấp trên ra lệnh giữ tàu hiện diện trong khu vực.
Chiều hôm đó, ba tàu tuần tra Bắc Việt bắt đầu đuổi theo tàu Maddox. Khoảng 3 giờ chiều, khi những tàu ngư lôi của Bắc Việt đã đuổi qúa gần, còn cách khoảng 1km, thuyền trưởng Herrick ra lệnh cho thủy thủ đoàn của mình bắt đầu bắn trả, đồng thời phát tín hiệu cầu cứu tới tàu sân bay USS Ticonderoga xin không quân hỗ trợ.
Các tàu của Bắc Việt mỗi chiếc bắn một trái ngư lôi vào Maddox, nhưng hai trái trượt mục tiêu, trái thứ ba không nổ.
Hoả lực từ Maddox bắn trúng một tàu tuần tra của Bắc Việt, ngay tiếp theo là ba máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ tấn công tàu địch. Trong vòng 20 phút ngắn ngủi, các xạ thủ Maddox đánh chìm một tàu và làm 2 tàu còn lại bị hỏng nặng, ghi nhận chỉ có 1 viên đạn trúng tàu Maddox và không có thương vong nào phía Hoa Kỳ,tàu Maddox sau đó được lệnh rút lui và chờ lệnh mới.
Tại Washington, Tổng thống Lyndon B. Johnson sau khi nhận được thông báo này, trước tiên đã bác bỏ bất kỳ cuộc trả đũa nào chống lại Bắc Việt Nam. Johnson đã thông báo qua đường dây nóng với Khrushchev rằng ông không có ý muốn mở rộng cuộc xung đột này.
Trong thông điệp ngoại giao đầu tiên của Hoa Kỳ gửi đến Hà Nội, ông Johnson đã cảnh báo rằng "sẽ có những hậu quả nghiêm trọng nếu có bất cứ hành động quân sự nào gây hấn với tàu Mỹ trên biển".
Trong khi đó, các lực lượng quân đội Hoa Kỳ đã được đặt trong tình trạng báo động, các máy bay tiêm kích đã được gửi thêm tới Nam Việt Nam và Thái Lan, tàu sân bay USS Constellation được lệnh đến Biển Đông để tham gia cùng tàu USS Ticonderoga.
Đô đốc Grant Sharp chỉ huy của Hạm đội Thái Bình Dương, ra lệnh tàu khu trục USS C. Turner Joy, tham gia hải trình cùng với Maddox vào ban ngày tiếp cận trong vòng 15km bờ biển của miền Bắc Việt Nam và 8km của các đảo, nhằm khẳng định "quyền tự do hàng hải".
42,
Tàu ngư lôi Bắc Việt tấn công tàu khu trục USS Maddox.
Tàu trinh sát của Mỹ đã hiện diện trên khắp vịnh Bắc bộ nhằm theo dõi các tín hiệu truyền tin và radar sau trận các khinh tốc đỉnh của VNCH đổ biệt kích tấn công các mục tiêu Bắc Việt trên đảo hòn Mê và hòn Ngư ngoài khơi bờ biển Bắc Việt trong chiến dịch Oplan 34A.
Khi giải mã các tín hiệu thông tin của phía Bắc Việt, các chuyên viên Mỹ tiên liệu là phía Bắc Việt đang chuẩn bị "các hoạt động quân sự", thuyền trưởng John Herrick của tàu Maddox đã đi đến kết luận có thể xảy ra tấn công trả đũa từ phiá địch, xin ý kiến thượng cấp, nhưng cấp trên ra lệnh giữ tàu hiện diện trong khu vực.
Chiều hôm đó, ba tàu tuần tra Bắc Việt bắt đầu đuổi theo tàu Maddox. Khoảng 3 giờ chiều, khi những tàu ngư lôi của Bắc Việt đã đuổi qúa gần, còn cách khoảng 1km, thuyền trưởng Herrick ra lệnh cho thủy thủ đoàn của mình bắt đầu bắn trả, đồng thời phát tín hiệu cầu cứu tới tàu sân bay USS Ticonderoga xin không quân hỗ trợ.
Các tàu của Bắc Việt mỗi chiếc bắn một trái ngư lôi vào Maddox, nhưng hai trái trượt mục tiêu, trái thứ ba không nổ.
Hoả lực từ Maddox bắn trúng một tàu tuần tra của Bắc Việt, ngay tiếp theo là ba máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ tấn công tàu địch. Trong vòng 20 phút ngắn ngủi, các xạ thủ Maddox đánh chìm một tàu và làm 2 tàu còn lại bị hỏng nặng, ghi nhận chỉ có 1 viên đạn trúng tàu Maddox và không có thương vong nào phía Hoa Kỳ,tàu Maddox sau đó được lệnh rút lui và chờ lệnh mới.
Tại Washington, Tổng thống Lyndon B. Johnson sau khi nhận được thông báo này, trước tiên đã bác bỏ bất kỳ cuộc trả đũa nào chống lại Bắc Việt Nam. Johnson đã thông báo qua đường dây nóng với Khrushchev rằng ông không có ý muốn mở rộng cuộc xung đột này.
Trong thông điệp ngoại giao đầu tiên của Hoa Kỳ gửi đến Hà Nội, ông Johnson đã cảnh báo rằng "sẽ có những hậu quả nghiêm trọng nếu có bất cứ hành động quân sự nào gây hấn với tàu Mỹ trên biển".
Trong khi đó, các lực lượng quân đội Hoa Kỳ đã được đặt trong tình trạng báo động, các máy bay tiêm kích đã được gửi thêm tới Nam Việt Nam và Thái Lan, tàu sân bay USS Constellation được lệnh đến Biển Đông để tham gia cùng tàu USS Ticonderoga.
Đô đốc Grant Sharp chỉ huy của Hạm đội Thái Bình Dương, ra lệnh tàu khu trục USS C. Turner Joy, tham gia hải trình cùng với Maddox vào ban ngày tiếp cận trong vòng 15km bờ biển của miền Bắc Việt Nam và 8km của các đảo, nhằm khẳng định "quyền tự do hàng hải".
42,
Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017
Vịnh Bắc bộ.
Ngày này 1/8/1964
Chính phủ Bắc Việt cáo buộc Nam Việt Nam và Hoa Kỳ đã tổ chức cuộc tấn công vào Hòn Mê và Hòn Ngư, hai hòn đảo ở Vịnh Bắc Bộ.
Bắc Việt có phần đúng khi cáo buộc, cuộc tấn công được thực hiện vào cuối đêm ngày 30/7/1964, là một phần trong chiến dịch bí mật được gọi là Oplan 34A, là một chiến dịch của biệt kích quân Việt Nam Cộng hoà hoạt động theo điều phối của Mỹ nhằm triệt hạ các tiền đồn thiết lập dọc bờ biển và đảo của Bắc Việt.
Mặc dù trên thực tế các lực lượng Mỹ không trực tiếp tham gia vào các cuộc tấn công, nhưng các tàu Hải quân Hoa Kỳ đã hiện diện trong vùng nhằm trinh sát điện tử và theo dõi các bố trí phòng thủ của Bắc Việt dưới một chương trình khác gọi là 'Chiến dịch De Soto'. Cuộc tấn công của chiến dịch 'Oplan 34A' đóng một vai trò quan trọng trong các sự kiện dẫn đến vụ việc sau này được gọi là vụ Vịnh Bắc Bộ.
Ngày 2/8/1964, tàu tuần tiễu Bắc Việt tấn công tàu khu trục USS Maddox đang tiến hành chiến dịch De Soto trong khu vực. Hai ngày sau cuộc tấn công đầu tiên này, tiếp một sự việc mà cho đến ngày hôm nay vẫn còn chưa rõ ràng, đó là tàu Maddox, cùng với tàu khu trục USS C. Turner Joy, đã bị tấn công thêm một lần nữa tại khu vực này!
Dù vẫn chưa rõ ràng cuộc tấn công thứ hai có thực sự xảy ra hay không? Nhưng vụ việc đã tạo thành cái cớ cho các cuộc tấn công trả đũa chống lại Bắc Việt và việc thông qua nghị quyết vịnh Bắc bộ ngay sau đó, nghị quyết này đã trở thành lý do cho việc leo thang chiến tranh ở Việt Nam và cuối cùng là đưa lính Mỹ đặt chân vào cuộc chiến.
42,
http://www.history.com/this-day-in-history/north-vietnamese-accuse-south-vietnam-and-the-united-states-of-attack
Chính phủ Bắc Việt cáo buộc Nam Việt Nam và Hoa Kỳ đã tổ chức cuộc tấn công vào Hòn Mê và Hòn Ngư, hai hòn đảo ở Vịnh Bắc Bộ.
Bắc Việt có phần đúng khi cáo buộc, cuộc tấn công được thực hiện vào cuối đêm ngày 30/7/1964, là một phần trong chiến dịch bí mật được gọi là Oplan 34A, là một chiến dịch của biệt kích quân Việt Nam Cộng hoà hoạt động theo điều phối của Mỹ nhằm triệt hạ các tiền đồn thiết lập dọc bờ biển và đảo của Bắc Việt.
Mặc dù trên thực tế các lực lượng Mỹ không trực tiếp tham gia vào các cuộc tấn công, nhưng các tàu Hải quân Hoa Kỳ đã hiện diện trong vùng nhằm trinh sát điện tử và theo dõi các bố trí phòng thủ của Bắc Việt dưới một chương trình khác gọi là 'Chiến dịch De Soto'. Cuộc tấn công của chiến dịch 'Oplan 34A' đóng một vai trò quan trọng trong các sự kiện dẫn đến vụ việc sau này được gọi là vụ Vịnh Bắc Bộ.
Ngày 2/8/1964, tàu tuần tiễu Bắc Việt tấn công tàu khu trục USS Maddox đang tiến hành chiến dịch De Soto trong khu vực. Hai ngày sau cuộc tấn công đầu tiên này, tiếp một sự việc mà cho đến ngày hôm nay vẫn còn chưa rõ ràng, đó là tàu Maddox, cùng với tàu khu trục USS C. Turner Joy, đã bị tấn công thêm một lần nữa tại khu vực này!
Dù vẫn chưa rõ ràng cuộc tấn công thứ hai có thực sự xảy ra hay không? Nhưng vụ việc đã tạo thành cái cớ cho các cuộc tấn công trả đũa chống lại Bắc Việt và việc thông qua nghị quyết vịnh Bắc bộ ngay sau đó, nghị quyết này đã trở thành lý do cho việc leo thang chiến tranh ở Việt Nam và cuối cùng là đưa lính Mỹ đặt chân vào cuộc chiến.
42,
http://www.history.com/this-day-in-history/north-vietnamese-accuse-south-vietnam-and-the-united-states-of-attack
Thứ Ba, 25 tháng 7, 2017
TSN-68, phần 4, hết.
(Đây là bản đính kèm, mô tả chi tiết trận đánh vào TSN đêm 30/1/1968)
Đính kèm #1, Chi tiết trận đánh
1. Vào đêm 30-31/1/1968, tất cả các lực lượng an ninh đều ở tình trạng báo động Vàng ngoại trừ đội Quân cảnh an ninh 377 là báo động Đỏ.
2. 2100 giờ, ngày 30/1/1968, Tiểu đoàn 53 An ninh phi trường (VNCH) nhận được thông tin tình báo từ bộ chỉ huy hỗn hợp (JDOC) rằng có khoảng 80 Việt cộng di chuyển từ Tây sang Đông ở khu vực lân cận xóm Gò Mây tọa độ XS754964. Tiểu đoàn lập tức điều toán tuần tiễu 20 người di chuyển trên diện rộng từ tọa độ XS774939 đến XS776934 đến XS763914. Toán tuần tiễu sau đó chuyển đến XS773948 để phục kích (khoảng 2345 giờ). Vào 0145 giờ, khi không phát hiện được sự di chuyển của địch quân, toán tuần tiễu di chuyển tới tọa độ lân cận XS771950 và sau đó quay lại bộ chỉ huy tiểu đoàn, cách 2 km về phía tây của TSN.
3. 0300 giờ, BCH hỗn hợp được thông báo rằng Đại sứ quán Hoa Kỳ và Đài phát thanh Sài Gòn đã bị tấn công. 0305 giờ được thông báo rằng bộ Tổng tham mưu Việt Nam đã bị tấn công. Lệnh báo động Đỏ và tất cả các chỉ huy trình diện với BCH hỗn hợp. 0320 giờ, lính gác tại tháp canh số 16 báo cáo thấy súng cá nhân từ một vị trí ngoài vành đai bắn vào khu vực kho xăng dầu. Nhóm quân cảnh được điều đi. Các nhóm phản ứng nhanh và nhóm đặc nhiệm 35 (biệt đội tăng phái) được thông báo ngắn gọn tình hình và điều ra các địa điểm ứng chiến.
4. 0320 giờ, Cổng 2, báo cáo chạm súng hạng nhẹ, bị bắn từ ngoài vào. Một nhóm quân cảnh được gửi đi tới cổng 2.
5. 0327 giờ, đội quân cảnh báo cáo rằng các vũ khí hạng nhẹ và vũ khí tự động của địch đã khai hoả phạm vi vành đai phía đông và hướng vào khu vực kho xăng dầu. (Báo cáo này từ cả hai chốt bảo vệ của Hoa Kỳ và VN).
6. 0330 giờ, ngày 31/1/1968, các lính canh ở phía bắc của căn cứ tiểu đoàn 53 An ninh phi trường báo động, có vài trăm địch quân đang di chuyển từ tây sang đông khoảng 400m về phía Bắc của bộ chỉ huy. Khoảng năm phút sau, lính canh báo cáo nghe súng tự động bắn từ hướng phi trường. 0330 giờ, yếu khu Tân Sơn Nhất đã điều một phi đội trực thăng chiến đấu đặt dưới quyền sử dụng của đại đội 3,tiểu đoàn 53. Trực thăng vũ trang đã được hướng dẫn tấn công vùng địch quân tập trung.
7. 0333 giờ, lô cốt 051 (vành đai phía tây nam) báo cáo bị tấn công bằng lựu đạn và cối, địch đồng thời bắn về vòng rào phía tây nhưng đã rơi ngoài mục tiêu. Một toán quân cảnh + toán phản ứng nhanh + quân cảnh đặc biệt được điều đi (Báo cáo này từ cả hai chốt bảo vệ của Hoa Kỳ và VN).
8. 0334 giờ, lô cốt 051 báo cáo có khoảng 25 địch xuất hiện ở phía đông của bià rừng cây, cách khoảng 100m ngoài hàng rào vành đai phía tây, súng nhỏ và vũ khí tự động bắn tập trung về phía tây vành đai. Hoả lực đáp trả từ phía đồng minh và từ các toán an ninh phi trường.
9. 0340 giờ, lô cốt 051 báo cáo bị trúng cối hoặc B40-41. An ninh phi trường đã điều một xe cứu thương tới 051 để di tản thương binh, xe cứu thương đã không thể tiếp cận được hầm trú ẩn do hỏa lực dữ dội của địch.
10. 0344 giờ, lô cốt 051 báo cáo hàng rào vành đai phía tây, tại địa điểm 75m về phía Bắc của lô cốt 051 đã bị phá huỷ và địch đang tràn vào căn cứ. Nhóm phản ứng nhanh Echo và hai trung đội của nhóm đặc nhiệm 35 đã được gửi đến khu vực và được triển khai đội hình nhằm ngăn chặn địch.
11. 0345 giờ, hai toán phản ứng nhanh bổ sung được gửi đi và cùng triển khai với toán Echo trước + hai trung đội của nhóm đặc nhiệm 35. Các đơn vị này đã triển khai song song cách đường Taxi W-6 khoảng 100m về phía bắc nhằm ngăn chặn sự thâm nhập của địch về phía đông.
12. 0347 giờ, toán phản ứng nhanh Echo báo cáo mặt trận đang bị tấn công bằng cối hoặc B40-41.
13. 0355 giờ, một trái nổ (có thể là đạn M79), đã rớt ngay kế bên bộ chỉ huy Tiểu Đoàn Dịch Vụ 2 nằm gần Cổng 10, cách khoảng 300m phiá Nam của kho xăng dầu. Trong vòng 2-3 phút, vũ khí hạng nhẹ, vũ khí tự động và B40-41 đồng loạt khai hoả hướng đến các vị trí quân VNCH ở quanh cổng số 10.
14. 0359 giờ, tháp canh A (hàng rào phía tây nam, cách 50m về phía đông của Cổng 051) báo cáo rằng địch đang tấn công vào phía nam tháp canh và phi đội trực thăng chiến đấu đang đụng độ với địch ở cánh đồng phía tây căn cứ.
15. 0410 giờ, tại vùng tọa độ XS783954 toán tuần tiễu của đại đội 13/53 Địa phương quân đụng độ với một đơn vị địch quân. Lính tuần tiễu chạm súng với địch khoảng 5 phút, và khi địch có ý định bao vây toán tuần tiễu, họ rút về phía nam khoảng 200m và gọi trực thăng vũ trang hỗ trợ.
Trực thăng vũ trang đã tảo thanh khu vực bằng đại liên và tên lửa. Lục soát sau đó tìm được 5 xác VC tại chỗ và (đếm xác) có 65 xác VC xung quanh hiện trường. Đây là đơn vị tăng cường cho lực lượng địch tấn công sân bay. Sau tổng kết với hoàn toàn không tổn thất, toán tuần tiễu về lại bộ chỉ huy để nhận đạn dược và chỉ thị.
16. 0412 giờ, BCH an ninh phi trường đã liên lạc với BCH hỗn hợp để xin trực thăng vũ trang hỗ trợ căn cứ, nhưng bị từ chối vì địch quân đã tiến quá gần các vị trí quân ta, trực thăng không thể phân biệt các vị trí giữa ta và địch.
17. 0415 giờ, chỉ huy Tiểu đoàn 2 Dịch vụ VNCH đã chỉ huy một trung đội phản công cùng với hai cố vấn Mỹ đến Khu vực Cổng 051. Khi trung đội còn cách lô cốt 051 khoảng 100m, hỏa lực của địch từ lô cốt bắn ra dữ dội. Một trinh sát được gởi đi nhằm xác định địch quân trong lô cốt. Địch tiếp tục bắn ra làm bị thương người lính, phần còn lại của trung đội ngay lập tức toả ra bao vây khu vực. Địch đã sử dụng khẩu đại bác 57ly trong lô cốt để bắn vào đội hình trung đội, làm bị thương một quân nhân và một cố vấn Mỹ.
18. 0422 giờ, nhóm quân cảnh báo cáo rằng họ ở khoảng 20m cách lô cốt 051 về phiá Tây nam và đang bị hoả lực địch gồm súng cá nhân và tự động bắn dữ dội
19. Áp lực của địch tiếp tục trong toàn bộ chu vi bằng đạn cối và B40, vũ khí cá nhân, tự động đến từ nhiều phiá và vị trí khác nhau. Một toán phản ứng nhanh và quân cảnh được triển khai tại cổng 055 (phiá cuối cực bắc của căn cứ) để tăng cường thêm cho lực lượng VNCH trong khu vực đó. Một nhóm phản ứng nhanh và 2 nhóm quân cảnh đã được triển khai ở phần phía đông bắc của khu vực xăng dầu trước đó khi có báo cáo về hỏa lực của đối phương tập trung về khu vực đó. Một nhóm phản ứng nhanh khác đã được triển khai tại cổng số 1 và cổng số 2 (phía nam vành đai chính và khu vực cổng chính) để đáp ứng với hỏa lực của đối phương bắn vào từ phía ngoài vòng rào vành đai.
Toán còn lại của nhóm đặc nhiệm 35 được giữ tại BCH hỗn hợp làm quân dự bị. Một nhóm phản ứng nhanh khác cũng được giữ làm dự bị nhằm bổ sung lực lượng phản công ở phía đông của căn cứ để hỗ trợ các đơn vị đang bị địch tấn công mạnh ở hướng đông và đông nam vành đai.
Một nhóm phản ứng nhanh đã được triển khai để hỗ trợ các quân nhân VNCH bảo vệ Cổng 056 (lô cốt 058, phía đông bắc) đang bị pháo kích dữ dội từ các vị trí địch ngoài vành đai.
Một toán đặc nhiệm Peter từ phía trung tâm MACV đã được triển khai ra phía Nam của cổng 10 để phản công địch quân đang tấn công vào khu vực MACV và Cổng 10.
20. 0500 giờ, Thiếu Tá Chiếu, Phó Tư lệnh yếu khu TSN, cùng đến với ba chiếc xe tăng hạng nhẹ và bắt đầu bắn vào các vị trí của địch gần cổng 051. Trong mười lăm phút, hai trong số ba chiếc xe tăng đã bị tên lửa B40 hoặc B41 phá hủy và chiếc thứ ba bị buộc phải rút khỏi khu vực. Thiếu tá Chiếu bị thương bởi một trong những vụ nổ tên lửa và phải tản thương.
21. Vào thời điểm này, tiểu đoàn tăng cường của địch đã đã hoàn toàn xâm nhập xuyên qua vành đai phía tây và đang tiến đánh vào phiá bên hông các đơn vị ngăn chặn trong khu vực.
22. 0515 giờ, một số đơn vị ở các vị trí đánh chặn đã hết đạn và yêu cầu tiếp viện đạn dược. Việc tiếp đạn được nhóm quân cảnh và nhóm cố vấn thực hiện. Các đơn vị VNCH tiếp tục tấn công tối đa hoả lực cá nhân và vũ khí tự động của họ vào vị trí địch, gây ra thương vong nặng cho đối phương.
23. 0523 giờ, pháo binh TSN sau khi được xác nhận an toàn để có thể bắn đại bác vào vị trí địch phía Tây của vành đai. Cùng thời điểm này, Pháo đội cối 81mm số 2 của Tiểu đoàn Công binh cũng đã nhận được xác nhận an toàn và bắt đầu tác xạ vào các mục tiêu đối phương phiá ngoài chu vi vành đai. Hoả lực của cả hai đơn vị nhằm ngăn chặn không cho địch quân tiếp tục xâm nhập từ khu vực hàng rào bị phá hủy ở phía tây của quốc lộ 1.
24. 0529 giờ, tháp canh số 1 phát hiện địch quân gần khu vực đường băng Alpha/Echo. Bộ chỉ huy an ninh đã phái một nhóm quân cảnh và hai nhóm phản ứng nhanh triển khai tuyến phòng thủ phía đông, phía tây và phía bắc đường băng 25L để ngăn chặn địch không cho tiến xa hơn về phiá Bắc. Vào thời điểm này, địch quân đã xâm nhập khoảng 600m sâu vào căn cứ với cánh quân mở rộng khoảng 300m chiều ngang.
25. 0545, Cố vấn cao cấp yếu khu TSN, Thiếu tướng Ware-tổng chỉ huy tất cả các Lực lượng Hoa Kỳ trong TSN. Tướng Ware ngay lập tức ra lệnh đặt chi đội C3 của lữ đoàn 4 Kỵ binh (Xe tăng)dưới sự điều động của yếu khu TSN. Chi đội được biên chế cho TSN nhằm hỗ trợ trực tiếp và chính thức liên lạc thẳng trên tần số của yếu khu.
26. 0551 giờ, tháp canh số 1 báo cáo các đơn vị đồng minh đang chạm súng với địch quân phía Tây căn cứ.
27. Trên đường trở về BCH của mình, toán tuần tiễu của tiểu đoàn 53 An ninh phi trường phát hiện và báo động có hàng trăm VC đang di chuyển từ Tây sang Đông cách khoảng 600-800m về phía bắc của BCH. Lập tức lệnh tấn công địch, hai lô cốt phía Bắc của bộ chỉ huy khai hỏa vào địch quân.
28. 0558 giờ, hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 8 Nhảy dù VNCH được điều đến khu vực đã bị địch thâm nhập để củng cố thêm vành đai phòng ngự và chuẩn bị cho phản công.
29. 0603 giờ, Tháp canh số 1 báo cáo một số địch quân đang rút lui qua khu vực hàng rào vành đai đã bị phá hủy ở phía nam của Cổng 0-51.
30. 0624 giờ, toàn bộ lực lượng phòng ngự bị hoả lực pháo kích dữ dội của địch, đạn cối và hoả tiễn.
31. 0630 giờ, Chi đội C3/4 Kỵ binh (còn thiếu 1 trung đội), từ hậu cứ hướng Củ chi tiến gần đến khu vực TSN. Đơn vị thiết kỵ này được biên chế vào cùng các đơn vị trong mũi phản công từ phía Bắc và có nhiệm vụ tấn công trực tiếp các lực lượng địch ở bên ngoài chu vi vành đai căn cứ. Cuộc tấn công này nhằm hỗ trợ cho các đơn vị đang chuẩn bị phản công toán địch quân đã xâm nhập vào trong khu vực căn cứ.
32. 0635 giờ, cuộc phản công bắt đầu với hai đại đội Nhảy dù VNCH cùng với các đơn vị quân đội Hoa Kỳ ở phía Nam, Bắc và phía Đông của vị trí đối phương đang chiếm giữ. Sau khi lực lượng phản công tiến được khoảng 100m, địch quân chống trả dữ dội, lực lượng phản công phải gọi pháo binh và trực thăng vũ trang yểm trợ.
33. 0635 giờ đến 0730 giờ, các khu vực Alpha, (hướng Tây bắc-Đông bắc) Bravo (hướng Đông) và Foxtrot (hướng Nam) báo cáo các loại vũ khí cá nhân và vũ khí tự động bắn vào căn cứ. Lực lượng phản công tiến chậm về phía tây vì hoả lực địch rất dữ dội.
34. 0645 giờ, tiểu đoàn 53 báo cáo phát hiện một tiểu đoàn VC đang di chuyển qua làng Tân Phú tọa lạc tại tọa độ XS793854 và chúng đã bao vây BCH ở tọa độ XS794928. Đại đội trưởng đđ 1/53 trong khi dẫn toán lính đi trinh sát địa điểm đóng quân VC, đã bị giết, Việt Cộng sau đó treo xác trước khu vực BCH và đốt xác ông. 0645 giờ một phần của tiểu đoàn 53 an ninh phi trường rút ra khỏi BCH về phía Tây bắc Bà Quẹo, ở toạ độ XS782946, gần khoảng 500m phía Tây nam của lô cốt 051, sau đó đã chia thành hai cánh quân phản kích lại địch quân. (thu dọn chiến trường sau này đếm được 169 xác địch quân tại tọa độ XS785954).
35. 0715 giờ, đại đội 3/53 an ninh phi trường báo cáo là bị bao vây bởi một lực lượng lớn Vc, yêu cầu được hỗ trợ và BCH hỗn hợp đã điều một phi đội trực thăng vũ trang ứng chiến. Sau ba đợt tấn công của trực thăng vũ trang, địch quân rút lui về hướng Đông bắc. Cuộc truy kích tiếp theo vào khu vực tìm thấy 7 xác địch quân bỏ lại, nhận xét địch phải chịu nhiều thiệt hại hơn tại đây. Tiếp tục lục xoát chung quanh khu vực, khoảng 200m về phía Bắc của vị trí này, tìm thấy 40 xác bị bỏ lại. Tất cả vũ khí bị mang đi và quân phục của xác chết đều bị lột mất.
36. 0730 giờ, trung đội còn lại của C3/4 Thiết kỵ đến hiện trường và được hướng dẫn tiến vào căn cứ qua cổng O-55 và tiến tới khu vực cổng O-51 để giải tỏa áp lực lên lực lượng thiết giáp lúc đó đang đụng độ dữ dội với địch.
37. 0725 giờ, toàn bộ tuyến phòng thủ bị địch quân pháo kích nặng nề, đồng thời địch lại bắt đầu tấn công vào tuyến phòng thủ phía VNCH. Địch quân đã thất bại trong cố gắng này. Hỏa lực nặng nề tiếp tục sau cuộc tấn công bất thành này được cho là nhằm cản bước truy kích để cho việc di tản quân địch bị thương và rút lui phần còn lại của lực lượng chính.
38. 0759 giờ, Tháp canh số 1 báo cáo thấy đạn cối rơi xuống phần phía Nam của lực lượng Nhảy dù VN. Đợt pháo kích này có thể liên quan trực tiếp đến mục đích đã đề cập ở đoạn ở trên.
39. Chi đội B3/4 Kỵ binh và khẩu đội pháo binh từ Sư đoàn 25 BB tại Củ chi đã đến hiện trường của cuộc chiến. Lực lượng này tham gia tấn công địch từ phía Bắc với toàn bộ đơn vị hiện diện ngay bên ngoài chu vi vành đai. Động thái này làm cắt đứt áp lực địch đang xâm nhập và hoàn toàn bao vây lực lượng chủ lực của địch quân.
40. Trong thời gian này, được hỗ trợ từ các đơn vị thiết giáp và pháo binh của sư đoàn 25BB cùng với hỏa lực liên tục từ phi đội trực thăng vũ trang, toàn bộ tuyến phản công từ từ tăng đà tiến quân. Củng cố cho nhận định này, Tháp canh số 1 báo cáo địch quân đang cố rút lui qua khu vực hàng rào giữa lô cốt 0-51 và cổng số 0-51, nơi hàng rào bị phá hủy trước đó.
41. 0930 giờ, cánh quân phía bắc của lực lượng phản công gồm các đơn vị Hoa Kỳ đã hoàn toàn chiếm lại thành công khu vực phía Nam của Cổng 0-51. Các đơn vị tiếp tục hứng chịu hoả lực địch từ vũ khí nhỏ, tự động, và B40-41 từ các vị trí của đối phương ngay phía phía Tây ngoài chu vi vành đai trong vài giờ.
42. Phiá Nam, nơi đơn vị Nhảy dù VN của lực lượng phản công tiếp tục bị thương vong nặng nề và bị đẩy lui ngược lại. Địch từ trong lô cốt 0-51, bị VC chiếm từ sáng sớm, đã trút hoả lực vũ khí nhẹ và tự động vào cánh quân phía Nam.
43. 1000 giờ, đơn vị nhảy dù rút về phía bắc Tháp canh số 3 và thiết lập các vị trí phòng thủ, trong khi đó các xe tăng của chi đội 3/4 và trực thăng vũ trang cố gắng tiêu diệt địch cố thủ trong lô cốt 0-51.
44. 1015 giờ, một chiếc trực thăng vũ trang bị bắn rơi ở phạm vi giữa lô cốt 0-52 và 0-52A. Tổng cộng 3 chiếc trực thăng vũ trang đã bị rơi trong vùng lân cận trong suốt trận chiến buổi sáng.
45. 1210 giờ, sau nhiều lần tấn công thất bại, lô cốt 0-51 đã được lực lượng quân cảnh 377 chiếm lại. Đây là mục tiêu cuối cùng bên trong chu vi vành đai bị chiếm giữ bởi địch quân. Cùng trong thời gian này, vài cuộc càn quét đã được tiến hành trong khu vực phía Bắc để chắc chắn rằng không còn địch quân sống sót phía trong vành đai căn cứ.
46. 1217 giờ, khu vực vành đai bị phá hủy đã được đóng lại và vành đai được bảo vệ. Hoả lực địch tiếp tục bắn vào từ các vị trí của địch ở cuối phía Tây của căn cứ trong vài giờ.
47. Trong suốt trận chiến kéo dài tám giờ đồng hồ trên toàn căn cứ, chiến đấu cùng địch quân vẫn tiếp diễn liên tục và dữ dội tại cổng số 10 và khu liên hợp MACV. cho tới 1300 giờ, tất cả các khu vực đã được giải toả, thu dọn chiến trường đếm được 82+ xác VC đã được xác nhận.
48. 1400 giờ, Tiểu Đoàn 8 Nhảy dù VNCH, Tiểu Đoàn 1 TQLC Việt nam và Tiểu Đoàn 4 TQLC VN đã nhận chỉ thị của BCH hỗn hợp tấn công và lục soát khu vực kho Hạnh Thông Tây (tiếp giáp phía Nam tây nam phi trường), hiện đang bị bao vây nặng nề bởi các lực lượng Việt Cộng.
Tiểu đoàn 8 nhảy dù đụng độ hoả lực dữ dội của địch quân, bị kẹt lại tại khu vực nhà cửa phía đông nam của Cổng số 10 cách căn cứ khoảng 500m.
Các tiểu đoàn Thủy quân lục chiến số 4 và số 1 tiếp tục tấn công và bảo vệ khu vực kho đạn và trại pháo binh Cổ Loa trong khu vực Hạnh Thông Tây. Sự kháng cự dữ dội của địch đã làm cho ba tiểu đoàn phải thiết lập các vị trí phòng thủ trước khi đêm xuống.
49. Tiểu đoàn 1/18, Sư đoàn 1Bộ Binh, được đặt dưới quyền điều động của yếu khu TSN. BCH hỗn hợp đưa ra kế hoạch tấn công gồm chi đội 3/4 Kỵ binh + tiểu đoàn 53 an ninh và lực lượng cơ hữu trong căn cứ làm đơn vị chốt chặn, mũi tấn công do tiểu đoàn 1/18BB tấn công địch theo hướng Tây bắc.
Trận tấn công này nhằn ép lực lượng chính của địch phải phân tán ra các nhóm phòng thủ nhỏ. Địch quân phá vỡ vòng vây trước đêm xuống, lực lượng địch rút lui về hướng Tây nam vào Bà Quẹo và hướng về phía Phú Thọ Hoà.
Lực lượng truy kích đã tấn công địch bằng đại bác bất cứ khi nào có điều kiện.
Chi đội C3/4 thiết kỵ báo cáo bị tấn công bằng hoả lực súng cá nhân rất dữ dội từ trong hãng dệt Vinatexco. Xác nhận an toàn cho oanh kích và đợt oanh tạc đầu tiên do phi đoàn 33 không quân VN thực hiện. Các cuộc không kích sau này do F100 thực hiện đã triệt hạ 95% cơ sở vật chất của hãng. Thu dọn chiến trường đếm được 170 xác VC, rất nhiều vũ khí đã tìm thấy chung quanh khu vực nhà máy.
50. Đại đội A chi đội 1/4/sư đoàn 1 BB, Tiểu đoàn 2/27/sư đoàn 25 BB và tiểu đoàn 2/327/sư đoàn 101 Nhảy dù đã được đặt dưới sự điều động của yếu khu TSN và các vị trí phòng thủ được củng cố chống lại nguy cơ một cuộc tấn công khác của địch. Các vị trí mới được thiết lập thêm vào các cứ điểm cũ nhằm tăng cường lực lượng vòng đai phòng thủ của các đơn vị trong căn cứ:
- Tiểu đoàn 2/327/101 nhảy dù nằm phía sau khu vực cổng 0-51 để chống xâm nhập từ hướng cổng.
- Tiểu đoàn 1/18/1BB làm lực lượng dự bị ở phía Tây nam của căn cứ gần đường băng 25L.
- Tiểu đoàn 2/27/25BB làm lực lượng cơ động, do đội 377 hỗ trợ chiến đấu huy động làm lực lượng phản ứng nhanh tại BCH Trực thăng Hoa Kỳ (nằm phía Tây nam căn cứ).
- Chi đội 3/4/25BB và đại đội 2/27/25BB trực thuộc - trực tiếp phía Nam của Cổng 0-56 (lô cốt 058) làm lực lượng phản ứng nhanh chống lại mối đe dọa của địch từ phía Tây bắc .
- Một đại đội 2/327/101 nhảy dù và một đại đội 1/18/1BB đóng trong vòng rào xung quanh Trụ sở MACV.
Tất cả việc bố trí đã được hoàn thành lúc 2100 giờ. Căn cứ được coi là bảo đảm an ninh vào thời điểm này.
2215 giờ, trung tá Lưu kim Cương tiếp tục quyền chỉ huy toàn bộ lực lượng quân VNCH. Đại tá Thebeau là chỉ huy trưởng trung đoàn 2/sư đoàn 1 BB nắm quyền chỉ huy toàn bộ lục quân Hoa kỳ, theo lệnh của tướng Ware tư lệnh mặt trận.
(trang này chưa giải mật). Hết.
42 chuyển ngữ.
Đính kèm #1, Chi tiết trận đánh
1. Vào đêm 30-31/1/1968, tất cả các lực lượng an ninh đều ở tình trạng báo động Vàng ngoại trừ đội Quân cảnh an ninh 377 là báo động Đỏ.
2. 2100 giờ, ngày 30/1/1968, Tiểu đoàn 53 An ninh phi trường (VNCH) nhận được thông tin tình báo từ bộ chỉ huy hỗn hợp (JDOC) rằng có khoảng 80 Việt cộng di chuyển từ Tây sang Đông ở khu vực lân cận xóm Gò Mây tọa độ XS754964. Tiểu đoàn lập tức điều toán tuần tiễu 20 người di chuyển trên diện rộng từ tọa độ XS774939 đến XS776934 đến XS763914. Toán tuần tiễu sau đó chuyển đến XS773948 để phục kích (khoảng 2345 giờ). Vào 0145 giờ, khi không phát hiện được sự di chuyển của địch quân, toán tuần tiễu di chuyển tới tọa độ lân cận XS771950 và sau đó quay lại bộ chỉ huy tiểu đoàn, cách 2 km về phía tây của TSN.
3. 0300 giờ, BCH hỗn hợp được thông báo rằng Đại sứ quán Hoa Kỳ và Đài phát thanh Sài Gòn đã bị tấn công. 0305 giờ được thông báo rằng bộ Tổng tham mưu Việt Nam đã bị tấn công. Lệnh báo động Đỏ và tất cả các chỉ huy trình diện với BCH hỗn hợp. 0320 giờ, lính gác tại tháp canh số 16 báo cáo thấy súng cá nhân từ một vị trí ngoài vành đai bắn vào khu vực kho xăng dầu. Nhóm quân cảnh được điều đi. Các nhóm phản ứng nhanh và nhóm đặc nhiệm 35 (biệt đội tăng phái) được thông báo ngắn gọn tình hình và điều ra các địa điểm ứng chiến.
4. 0320 giờ, Cổng 2, báo cáo chạm súng hạng nhẹ, bị bắn từ ngoài vào. Một nhóm quân cảnh được gửi đi tới cổng 2.
5. 0327 giờ, đội quân cảnh báo cáo rằng các vũ khí hạng nhẹ và vũ khí tự động của địch đã khai hoả phạm vi vành đai phía đông và hướng vào khu vực kho xăng dầu. (Báo cáo này từ cả hai chốt bảo vệ của Hoa Kỳ và VN).
6. 0330 giờ, ngày 31/1/1968, các lính canh ở phía bắc của căn cứ tiểu đoàn 53 An ninh phi trường báo động, có vài trăm địch quân đang di chuyển từ tây sang đông khoảng 400m về phía Bắc của bộ chỉ huy. Khoảng năm phút sau, lính canh báo cáo nghe súng tự động bắn từ hướng phi trường. 0330 giờ, yếu khu Tân Sơn Nhất đã điều một phi đội trực thăng chiến đấu đặt dưới quyền sử dụng của đại đội 3,tiểu đoàn 53. Trực thăng vũ trang đã được hướng dẫn tấn công vùng địch quân tập trung.
7. 0333 giờ, lô cốt 051 (vành đai phía tây nam) báo cáo bị tấn công bằng lựu đạn và cối, địch đồng thời bắn về vòng rào phía tây nhưng đã rơi ngoài mục tiêu. Một toán quân cảnh + toán phản ứng nhanh + quân cảnh đặc biệt được điều đi (Báo cáo này từ cả hai chốt bảo vệ của Hoa Kỳ và VN).
8. 0334 giờ, lô cốt 051 báo cáo có khoảng 25 địch xuất hiện ở phía đông của bià rừng cây, cách khoảng 100m ngoài hàng rào vành đai phía tây, súng nhỏ và vũ khí tự động bắn tập trung về phía tây vành đai. Hoả lực đáp trả từ phía đồng minh và từ các toán an ninh phi trường.
9. 0340 giờ, lô cốt 051 báo cáo bị trúng cối hoặc B40-41. An ninh phi trường đã điều một xe cứu thương tới 051 để di tản thương binh, xe cứu thương đã không thể tiếp cận được hầm trú ẩn do hỏa lực dữ dội của địch.
10. 0344 giờ, lô cốt 051 báo cáo hàng rào vành đai phía tây, tại địa điểm 75m về phía Bắc của lô cốt 051 đã bị phá huỷ và địch đang tràn vào căn cứ. Nhóm phản ứng nhanh Echo và hai trung đội của nhóm đặc nhiệm 35 đã được gửi đến khu vực và được triển khai đội hình nhằm ngăn chặn địch.
11. 0345 giờ, hai toán phản ứng nhanh bổ sung được gửi đi và cùng triển khai với toán Echo trước + hai trung đội của nhóm đặc nhiệm 35. Các đơn vị này đã triển khai song song cách đường Taxi W-6 khoảng 100m về phía bắc nhằm ngăn chặn sự thâm nhập của địch về phía đông.
12. 0347 giờ, toán phản ứng nhanh Echo báo cáo mặt trận đang bị tấn công bằng cối hoặc B40-41.
13. 0355 giờ, một trái nổ (có thể là đạn M79), đã rớt ngay kế bên bộ chỉ huy Tiểu Đoàn Dịch Vụ 2 nằm gần Cổng 10, cách khoảng 300m phiá Nam của kho xăng dầu. Trong vòng 2-3 phút, vũ khí hạng nhẹ, vũ khí tự động và B40-41 đồng loạt khai hoả hướng đến các vị trí quân VNCH ở quanh cổng số 10.
14. 0359 giờ, tháp canh A (hàng rào phía tây nam, cách 50m về phía đông của Cổng 051) báo cáo rằng địch đang tấn công vào phía nam tháp canh và phi đội trực thăng chiến đấu đang đụng độ với địch ở cánh đồng phía tây căn cứ.
15. 0410 giờ, tại vùng tọa độ XS783954 toán tuần tiễu của đại đội 13/53 Địa phương quân đụng độ với một đơn vị địch quân. Lính tuần tiễu chạm súng với địch khoảng 5 phút, và khi địch có ý định bao vây toán tuần tiễu, họ rút về phía nam khoảng 200m và gọi trực thăng vũ trang hỗ trợ.
Trực thăng vũ trang đã tảo thanh khu vực bằng đại liên và tên lửa. Lục soát sau đó tìm được 5 xác VC tại chỗ và (đếm xác) có 65 xác VC xung quanh hiện trường. Đây là đơn vị tăng cường cho lực lượng địch tấn công sân bay. Sau tổng kết với hoàn toàn không tổn thất, toán tuần tiễu về lại bộ chỉ huy để nhận đạn dược và chỉ thị.
16. 0412 giờ, BCH an ninh phi trường đã liên lạc với BCH hỗn hợp để xin trực thăng vũ trang hỗ trợ căn cứ, nhưng bị từ chối vì địch quân đã tiến quá gần các vị trí quân ta, trực thăng không thể phân biệt các vị trí giữa ta và địch.
17. 0415 giờ, chỉ huy Tiểu đoàn 2 Dịch vụ VNCH đã chỉ huy một trung đội phản công cùng với hai cố vấn Mỹ đến Khu vực Cổng 051. Khi trung đội còn cách lô cốt 051 khoảng 100m, hỏa lực của địch từ lô cốt bắn ra dữ dội. Một trinh sát được gởi đi nhằm xác định địch quân trong lô cốt. Địch tiếp tục bắn ra làm bị thương người lính, phần còn lại của trung đội ngay lập tức toả ra bao vây khu vực. Địch đã sử dụng khẩu đại bác 57ly trong lô cốt để bắn vào đội hình trung đội, làm bị thương một quân nhân và một cố vấn Mỹ.
18. 0422 giờ, nhóm quân cảnh báo cáo rằng họ ở khoảng 20m cách lô cốt 051 về phiá Tây nam và đang bị hoả lực địch gồm súng cá nhân và tự động bắn dữ dội
19. Áp lực của địch tiếp tục trong toàn bộ chu vi bằng đạn cối và B40, vũ khí cá nhân, tự động đến từ nhiều phiá và vị trí khác nhau. Một toán phản ứng nhanh và quân cảnh được triển khai tại cổng 055 (phiá cuối cực bắc của căn cứ) để tăng cường thêm cho lực lượng VNCH trong khu vực đó. Một nhóm phản ứng nhanh và 2 nhóm quân cảnh đã được triển khai ở phần phía đông bắc của khu vực xăng dầu trước đó khi có báo cáo về hỏa lực của đối phương tập trung về khu vực đó. Một nhóm phản ứng nhanh khác đã được triển khai tại cổng số 1 và cổng số 2 (phía nam vành đai chính và khu vực cổng chính) để đáp ứng với hỏa lực của đối phương bắn vào từ phía ngoài vòng rào vành đai.
Toán còn lại của nhóm đặc nhiệm 35 được giữ tại BCH hỗn hợp làm quân dự bị. Một nhóm phản ứng nhanh khác cũng được giữ làm dự bị nhằm bổ sung lực lượng phản công ở phía đông của căn cứ để hỗ trợ các đơn vị đang bị địch tấn công mạnh ở hướng đông và đông nam vành đai.
Một nhóm phản ứng nhanh đã được triển khai để hỗ trợ các quân nhân VNCH bảo vệ Cổng 056 (lô cốt 058, phía đông bắc) đang bị pháo kích dữ dội từ các vị trí địch ngoài vành đai.
Một toán đặc nhiệm Peter từ phía trung tâm MACV đã được triển khai ra phía Nam của cổng 10 để phản công địch quân đang tấn công vào khu vực MACV và Cổng 10.
20. 0500 giờ, Thiếu Tá Chiếu, Phó Tư lệnh yếu khu TSN, cùng đến với ba chiếc xe tăng hạng nhẹ và bắt đầu bắn vào các vị trí của địch gần cổng 051. Trong mười lăm phút, hai trong số ba chiếc xe tăng đã bị tên lửa B40 hoặc B41 phá hủy và chiếc thứ ba bị buộc phải rút khỏi khu vực. Thiếu tá Chiếu bị thương bởi một trong những vụ nổ tên lửa và phải tản thương.
21. Vào thời điểm này, tiểu đoàn tăng cường của địch đã đã hoàn toàn xâm nhập xuyên qua vành đai phía tây và đang tiến đánh vào phiá bên hông các đơn vị ngăn chặn trong khu vực.
22. 0515 giờ, một số đơn vị ở các vị trí đánh chặn đã hết đạn và yêu cầu tiếp viện đạn dược. Việc tiếp đạn được nhóm quân cảnh và nhóm cố vấn thực hiện. Các đơn vị VNCH tiếp tục tấn công tối đa hoả lực cá nhân và vũ khí tự động của họ vào vị trí địch, gây ra thương vong nặng cho đối phương.
23. 0523 giờ, pháo binh TSN sau khi được xác nhận an toàn để có thể bắn đại bác vào vị trí địch phía Tây của vành đai. Cùng thời điểm này, Pháo đội cối 81mm số 2 của Tiểu đoàn Công binh cũng đã nhận được xác nhận an toàn và bắt đầu tác xạ vào các mục tiêu đối phương phiá ngoài chu vi vành đai. Hoả lực của cả hai đơn vị nhằm ngăn chặn không cho địch quân tiếp tục xâm nhập từ khu vực hàng rào bị phá hủy ở phía tây của quốc lộ 1.
24. 0529 giờ, tháp canh số 1 phát hiện địch quân gần khu vực đường băng Alpha/Echo. Bộ chỉ huy an ninh đã phái một nhóm quân cảnh và hai nhóm phản ứng nhanh triển khai tuyến phòng thủ phía đông, phía tây và phía bắc đường băng 25L để ngăn chặn địch không cho tiến xa hơn về phiá Bắc. Vào thời điểm này, địch quân đã xâm nhập khoảng 600m sâu vào căn cứ với cánh quân mở rộng khoảng 300m chiều ngang.
25. 0545, Cố vấn cao cấp yếu khu TSN, Thiếu tướng Ware-tổng chỉ huy tất cả các Lực lượng Hoa Kỳ trong TSN. Tướng Ware ngay lập tức ra lệnh đặt chi đội C3 của lữ đoàn 4 Kỵ binh (Xe tăng)dưới sự điều động của yếu khu TSN. Chi đội được biên chế cho TSN nhằm hỗ trợ trực tiếp và chính thức liên lạc thẳng trên tần số của yếu khu.
26. 0551 giờ, tháp canh số 1 báo cáo các đơn vị đồng minh đang chạm súng với địch quân phía Tây căn cứ.
27. Trên đường trở về BCH của mình, toán tuần tiễu của tiểu đoàn 53 An ninh phi trường phát hiện và báo động có hàng trăm VC đang di chuyển từ Tây sang Đông cách khoảng 600-800m về phía bắc của BCH. Lập tức lệnh tấn công địch, hai lô cốt phía Bắc của bộ chỉ huy khai hỏa vào địch quân.
28. 0558 giờ, hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 8 Nhảy dù VNCH được điều đến khu vực đã bị địch thâm nhập để củng cố thêm vành đai phòng ngự và chuẩn bị cho phản công.
29. 0603 giờ, Tháp canh số 1 báo cáo một số địch quân đang rút lui qua khu vực hàng rào vành đai đã bị phá hủy ở phía nam của Cổng 0-51.
30. 0624 giờ, toàn bộ lực lượng phòng ngự bị hoả lực pháo kích dữ dội của địch, đạn cối và hoả tiễn.
31. 0630 giờ, Chi đội C3/4 Kỵ binh (còn thiếu 1 trung đội), từ hậu cứ hướng Củ chi tiến gần đến khu vực TSN. Đơn vị thiết kỵ này được biên chế vào cùng các đơn vị trong mũi phản công từ phía Bắc và có nhiệm vụ tấn công trực tiếp các lực lượng địch ở bên ngoài chu vi vành đai căn cứ. Cuộc tấn công này nhằm hỗ trợ cho các đơn vị đang chuẩn bị phản công toán địch quân đã xâm nhập vào trong khu vực căn cứ.
32. 0635 giờ, cuộc phản công bắt đầu với hai đại đội Nhảy dù VNCH cùng với các đơn vị quân đội Hoa Kỳ ở phía Nam, Bắc và phía Đông của vị trí đối phương đang chiếm giữ. Sau khi lực lượng phản công tiến được khoảng 100m, địch quân chống trả dữ dội, lực lượng phản công phải gọi pháo binh và trực thăng vũ trang yểm trợ.
33. 0635 giờ đến 0730 giờ, các khu vực Alpha, (hướng Tây bắc-Đông bắc) Bravo (hướng Đông) và Foxtrot (hướng Nam) báo cáo các loại vũ khí cá nhân và vũ khí tự động bắn vào căn cứ. Lực lượng phản công tiến chậm về phía tây vì hoả lực địch rất dữ dội.
34. 0645 giờ, tiểu đoàn 53 báo cáo phát hiện một tiểu đoàn VC đang di chuyển qua làng Tân Phú tọa lạc tại tọa độ XS793854 và chúng đã bao vây BCH ở tọa độ XS794928. Đại đội trưởng đđ 1/53 trong khi dẫn toán lính đi trinh sát địa điểm đóng quân VC, đã bị giết, Việt Cộng sau đó treo xác trước khu vực BCH và đốt xác ông. 0645 giờ một phần của tiểu đoàn 53 an ninh phi trường rút ra khỏi BCH về phía Tây bắc Bà Quẹo, ở toạ độ XS782946, gần khoảng 500m phía Tây nam của lô cốt 051, sau đó đã chia thành hai cánh quân phản kích lại địch quân. (thu dọn chiến trường sau này đếm được 169 xác địch quân tại tọa độ XS785954).
35. 0715 giờ, đại đội 3/53 an ninh phi trường báo cáo là bị bao vây bởi một lực lượng lớn Vc, yêu cầu được hỗ trợ và BCH hỗn hợp đã điều một phi đội trực thăng vũ trang ứng chiến. Sau ba đợt tấn công của trực thăng vũ trang, địch quân rút lui về hướng Đông bắc. Cuộc truy kích tiếp theo vào khu vực tìm thấy 7 xác địch quân bỏ lại, nhận xét địch phải chịu nhiều thiệt hại hơn tại đây. Tiếp tục lục xoát chung quanh khu vực, khoảng 200m về phía Bắc của vị trí này, tìm thấy 40 xác bị bỏ lại. Tất cả vũ khí bị mang đi và quân phục của xác chết đều bị lột mất.
36. 0730 giờ, trung đội còn lại của C3/4 Thiết kỵ đến hiện trường và được hướng dẫn tiến vào căn cứ qua cổng O-55 và tiến tới khu vực cổng O-51 để giải tỏa áp lực lên lực lượng thiết giáp lúc đó đang đụng độ dữ dội với địch.
37. 0725 giờ, toàn bộ tuyến phòng thủ bị địch quân pháo kích nặng nề, đồng thời địch lại bắt đầu tấn công vào tuyến phòng thủ phía VNCH. Địch quân đã thất bại trong cố gắng này. Hỏa lực nặng nề tiếp tục sau cuộc tấn công bất thành này được cho là nhằm cản bước truy kích để cho việc di tản quân địch bị thương và rút lui phần còn lại của lực lượng chính.
38. 0759 giờ, Tháp canh số 1 báo cáo thấy đạn cối rơi xuống phần phía Nam của lực lượng Nhảy dù VN. Đợt pháo kích này có thể liên quan trực tiếp đến mục đích đã đề cập ở đoạn ở trên.
39. Chi đội B3/4 Kỵ binh và khẩu đội pháo binh từ Sư đoàn 25 BB tại Củ chi đã đến hiện trường của cuộc chiến. Lực lượng này tham gia tấn công địch từ phía Bắc với toàn bộ đơn vị hiện diện ngay bên ngoài chu vi vành đai. Động thái này làm cắt đứt áp lực địch đang xâm nhập và hoàn toàn bao vây lực lượng chủ lực của địch quân.
40. Trong thời gian này, được hỗ trợ từ các đơn vị thiết giáp và pháo binh của sư đoàn 25BB cùng với hỏa lực liên tục từ phi đội trực thăng vũ trang, toàn bộ tuyến phản công từ từ tăng đà tiến quân. Củng cố cho nhận định này, Tháp canh số 1 báo cáo địch quân đang cố rút lui qua khu vực hàng rào giữa lô cốt 0-51 và cổng số 0-51, nơi hàng rào bị phá hủy trước đó.
41. 0930 giờ, cánh quân phía bắc của lực lượng phản công gồm các đơn vị Hoa Kỳ đã hoàn toàn chiếm lại thành công khu vực phía Nam của Cổng 0-51. Các đơn vị tiếp tục hứng chịu hoả lực địch từ vũ khí nhỏ, tự động, và B40-41 từ các vị trí của đối phương ngay phía phía Tây ngoài chu vi vành đai trong vài giờ.
42. Phiá Nam, nơi đơn vị Nhảy dù VN của lực lượng phản công tiếp tục bị thương vong nặng nề và bị đẩy lui ngược lại. Địch từ trong lô cốt 0-51, bị VC chiếm từ sáng sớm, đã trút hoả lực vũ khí nhẹ và tự động vào cánh quân phía Nam.
43. 1000 giờ, đơn vị nhảy dù rút về phía bắc Tháp canh số 3 và thiết lập các vị trí phòng thủ, trong khi đó các xe tăng của chi đội 3/4 và trực thăng vũ trang cố gắng tiêu diệt địch cố thủ trong lô cốt 0-51.
44. 1015 giờ, một chiếc trực thăng vũ trang bị bắn rơi ở phạm vi giữa lô cốt 0-52 và 0-52A. Tổng cộng 3 chiếc trực thăng vũ trang đã bị rơi trong vùng lân cận trong suốt trận chiến buổi sáng.
45. 1210 giờ, sau nhiều lần tấn công thất bại, lô cốt 0-51 đã được lực lượng quân cảnh 377 chiếm lại. Đây là mục tiêu cuối cùng bên trong chu vi vành đai bị chiếm giữ bởi địch quân. Cùng trong thời gian này, vài cuộc càn quét đã được tiến hành trong khu vực phía Bắc để chắc chắn rằng không còn địch quân sống sót phía trong vành đai căn cứ.
46. 1217 giờ, khu vực vành đai bị phá hủy đã được đóng lại và vành đai được bảo vệ. Hoả lực địch tiếp tục bắn vào từ các vị trí của địch ở cuối phía Tây của căn cứ trong vài giờ.
47. Trong suốt trận chiến kéo dài tám giờ đồng hồ trên toàn căn cứ, chiến đấu cùng địch quân vẫn tiếp diễn liên tục và dữ dội tại cổng số 10 và khu liên hợp MACV. cho tới 1300 giờ, tất cả các khu vực đã được giải toả, thu dọn chiến trường đếm được 82+ xác VC đã được xác nhận.
48. 1400 giờ, Tiểu Đoàn 8 Nhảy dù VNCH, Tiểu Đoàn 1 TQLC Việt nam và Tiểu Đoàn 4 TQLC VN đã nhận chỉ thị của BCH hỗn hợp tấn công và lục soát khu vực kho Hạnh Thông Tây (tiếp giáp phía Nam tây nam phi trường), hiện đang bị bao vây nặng nề bởi các lực lượng Việt Cộng.
Tiểu đoàn 8 nhảy dù đụng độ hoả lực dữ dội của địch quân, bị kẹt lại tại khu vực nhà cửa phía đông nam của Cổng số 10 cách căn cứ khoảng 500m.
Các tiểu đoàn Thủy quân lục chiến số 4 và số 1 tiếp tục tấn công và bảo vệ khu vực kho đạn và trại pháo binh Cổ Loa trong khu vực Hạnh Thông Tây. Sự kháng cự dữ dội của địch đã làm cho ba tiểu đoàn phải thiết lập các vị trí phòng thủ trước khi đêm xuống.
49. Tiểu đoàn 1/18, Sư đoàn 1Bộ Binh, được đặt dưới quyền điều động của yếu khu TSN. BCH hỗn hợp đưa ra kế hoạch tấn công gồm chi đội 3/4 Kỵ binh + tiểu đoàn 53 an ninh và lực lượng cơ hữu trong căn cứ làm đơn vị chốt chặn, mũi tấn công do tiểu đoàn 1/18BB tấn công địch theo hướng Tây bắc.
Trận tấn công này nhằn ép lực lượng chính của địch phải phân tán ra các nhóm phòng thủ nhỏ. Địch quân phá vỡ vòng vây trước đêm xuống, lực lượng địch rút lui về hướng Tây nam vào Bà Quẹo và hướng về phía Phú Thọ Hoà.
Lực lượng truy kích đã tấn công địch bằng đại bác bất cứ khi nào có điều kiện.
Chi đội C3/4 thiết kỵ báo cáo bị tấn công bằng hoả lực súng cá nhân rất dữ dội từ trong hãng dệt Vinatexco. Xác nhận an toàn cho oanh kích và đợt oanh tạc đầu tiên do phi đoàn 33 không quân VN thực hiện. Các cuộc không kích sau này do F100 thực hiện đã triệt hạ 95% cơ sở vật chất của hãng. Thu dọn chiến trường đếm được 170 xác VC, rất nhiều vũ khí đã tìm thấy chung quanh khu vực nhà máy.
50. Đại đội A chi đội 1/4/sư đoàn 1 BB, Tiểu đoàn 2/27/sư đoàn 25 BB và tiểu đoàn 2/327/sư đoàn 101 Nhảy dù đã được đặt dưới sự điều động của yếu khu TSN và các vị trí phòng thủ được củng cố chống lại nguy cơ một cuộc tấn công khác của địch. Các vị trí mới được thiết lập thêm vào các cứ điểm cũ nhằm tăng cường lực lượng vòng đai phòng thủ của các đơn vị trong căn cứ:
- Tiểu đoàn 2/327/101 nhảy dù nằm phía sau khu vực cổng 0-51 để chống xâm nhập từ hướng cổng.
- Tiểu đoàn 1/18/1BB làm lực lượng dự bị ở phía Tây nam của căn cứ gần đường băng 25L.
- Tiểu đoàn 2/27/25BB làm lực lượng cơ động, do đội 377 hỗ trợ chiến đấu huy động làm lực lượng phản ứng nhanh tại BCH Trực thăng Hoa Kỳ (nằm phía Tây nam căn cứ).
- Chi đội 3/4/25BB và đại đội 2/27/25BB trực thuộc - trực tiếp phía Nam của Cổng 0-56 (lô cốt 058) làm lực lượng phản ứng nhanh chống lại mối đe dọa của địch từ phía Tây bắc .
- Một đại đội 2/327/101 nhảy dù và một đại đội 1/18/1BB đóng trong vòng rào xung quanh Trụ sở MACV.
Tất cả việc bố trí đã được hoàn thành lúc 2100 giờ. Căn cứ được coi là bảo đảm an ninh vào thời điểm này.
2215 giờ, trung tá Lưu kim Cương tiếp tục quyền chỉ huy toàn bộ lực lượng quân VNCH. Đại tá Thebeau là chỉ huy trưởng trung đoàn 2/sư đoàn 1 BB nắm quyền chỉ huy toàn bộ lục quân Hoa kỳ, theo lệnh của tướng Ware tư lệnh mặt trận.
(trang này chưa giải mật). Hết.
Hình mạng, lô cốt 0-51 |
42 chuyển ngữ.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)