Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

Trận Đức Lập 1968. Phần 2/4

Thứ bảy 24/8/1968, ngày thứ nhì cuả trận chiến.  

Trong này thứ sáu, các cuộc tấn công vẫn tiếp tục lúc nặng lúc nhẹ. Một toán trinh sát người Thượng được phái ra, trên đường tuần tra từ cổng chính để càn quét các làng bên cạnh, đã bị buộc phải dội trở lại bởi một trận hoả tiễn B40 và đạn cối, báo hiệu trước một cuộc tấn công biển người vào khu trại Lực Lượng Đặc Biệt. Trên đỉnh đồi chính, một loạt đạn cối đã phát nổ gần kế bên trung sỹ Vas, một loạt đạn thứ hai đã nổ ở  một khoảng cách ngắn với trung sỹ Blair. Blair không bị thương nghiêm trọng lắm, nhưng Vas bị thương rất nặng. Blair một chiến binh có tầm vóc nhỏ thó, nhưng đã cố gắng để kéo người trung sĩ bị thương về phía hầm y tế. Anh gào lên kêu gọi sự giúp đỡ, Trung úy Anthony Ayers, một chỉ huy khác cuả đơn vị chạy đến giúp đỡ, đạn nổ khắp nơi. Một loạt cối phát nổ gần đó, và một mảnh đạn văng trúng hàm dưới cuả trung úy Ayers, giờ có đến hai chiến binh thương vong.

Trung sỹ Boody từ xa phóng vọt đến, lôi những người chiến binh bị thương vào hầm và cố cột garô trên cánh tay bị trúng miểng cuả Vas trong khi đó Blair dùng tay ép chặt vết thương để cầm máu, một động mạch đã bị cắt đứt và người Vas đẫm máu, vết thương cuả Vas rất nghiêm trọng. Trung úy Ayers bị một vết thương sâu trên khuôn mặt, và bộ quân phục của anh cũng đã thấm đẫm máu. Cả hai người cần được cấp cứu ngay lập tức. Dan Shepherd lúc này đang ở gần bệnh xá trại phiá cổng chính khi cuộc tấn công mới bắt đầu. Boody gọi điện cho anh và nói với anh ta đến hầm y tế ngay tức khắc: "Vas đã bị trọng thương" anh nói "... Ayres cũng bị thương."

Trên đường Shepherd chạy trở lại hầm trú ẩn, anh nhìn thấy nhóm trinh sát Thượng, bị đẩy lùi trở vào trại vì lần tấn công bằng B40 lúc nãy, đang lộn xộn núp phía sau đống bao cát, đang cố gắng cúi thấp để bảo vệ đầu của họ. "Phóng sang phiá giao thông hào bên kia" anh gầm lên, anh và từng người một nhảy xuống giao thông hào, họ đồng thời bắt đầu khai hoả về phiá địch đang tấn công.  


Tham mưu phó cuả B-Team từ Ban Mê Thuột đã đến căn cứ bằng trực thăng, thiếu tá Roland Greenwood, ông là người sẽ điều phối với các đại đội Mike Force đang được gởi tới để củng cố phòng thủ của trại, cùng với đạn dược và vật tư. Phi hành đoàn trực thăng sau đó đã tiến hành tản thương Vas và Ayres cùng với viên phi công được nhóm biệt kích cứu sống, thiếu úy phi công Thurn.
 

Đêm đến, theo sau với những đợt pháo kích dữ dội, dưới sự che chở của lưới lửa nặng nề, một lực lượng lớn quân Bắc Việt tấn công và tràn ngập khu căn cứ phiá Bắc chỉ được bảo vệ lỏng lẻo của trại Lực Lượng Đặc Biệt, và cuộc tấn công tiếp tục đẩy về phía trước về phiá trại chính lúc rạng đông. Thậm chí có lúc, địch quân đã lọt vào trong vòng 150 feet của hầm chỉ huy chính trên ngọn đồi phía Nam trước khi bị đẩy lùi bằng hoả lực vũ khí hạng nhẹ, súng cối trực thăng vũ trang. Khi cuộc tấn công đã bị đẩy lùi, quân đội Bắc Việt đã bị tổn thất khủng khiếp trong khi rút lui trở lại hầm trú ẩn mà họ đã chiếm được trên đỉnh đồi phía Bắc.

Trinh sát sau đó xác nhận nửa phía bắc của trại đã hoàn toàn nằm trong tay quân Bắc Việt. Một âm thoại viên người Thượng và bốn chiến binh người Thượng khác đã núp trong một căn hầm trên đồi mà địch quân tràn ngập trong cuộc tấn công đêm qua, họ vẫn giữ liên lạc với cấp chỉ huy LLĐB ( Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam Công Hoà). Người âm thoại viên cung cấp thông tin liên tục về lực lượng địch, điều chỉnh pháo binh tác xạ trên các vị trí súng địch quân, và thậm chí đã gọi hoả lực dập thẳng vào vị trí nơi anh và các đồng đội đang trú ẩn. Báo cáo cuối cùng của người chiến binh cho biết quân địch đang lục soát những lô cốt gần đó, bắn và ném lựu đạn vào từng cái một. Sau lần liên lạc đó, không còn nghe gì từ nhóm quân nhân ấy một lần nữa... Im lặng vô tuyến hoàn toàn!

Các chiến binh trong nhóm Green Beret (mũ x
anh) tập họp trong hầm chỉ huy để thảo luận về tình hình chung. Các cuộc tấn công kéo dài suốt đêm đã chấm dứt khi mặt trời mọc, nhưng không ai có thể biết những gì sẽ xảy ra tiếp theo. "Chúng tôi không biết liệu chúng tôi sẽ phải di tản vào thời điểm này, có vẻ đây là một ý tưởng rất tốt cho chúng tôi," Don Childs (ASA) cho biết: "Tình hình có vẻ khá vô vọng ... Chúng tôi không biết những gì Charlie đã được lên kế hoạch, nhưng chúng tôi biết họ đã tràn ngập các ngọn đồi khác, và họ sẽ không ... (cần) quá nhiều nỗ lực để có thể chiếm ngọn đồi của chúng tôi, ít nhất tôi đã không nghĩ rằng như vậy. Chúng tôi đã nhận được đủ thứ cứt đái rồi, giơ chờ đợi lệnh thượng cấp phải làm gì tiếp theo"[Chú ý:. Tất cả tài liệu tối mật cuả ASA và nhóm thiết bị kiểm thính cuả toán 403 biệt đội kỹ thuật đặt trong hầm sẽ phải bị phá hủy bằng chất cháy trước khi toán dược phép di tản.]

Đến trưa ngày thứ Bảy, căn cứ A-239 đã có tám mươi thương vong trong đó hơn năm mươi binh sĩ người Thượng đã bị thiệt mạng, nhưng họ vẫn giữ được vị trí. Tổng sức phòng vệ của trại hiện còn khoảng 200 chiến binh. Harp vẫn không biết chính xác quân số quân Bắc Việt đã chiếm khu đồi phiá Bắc, nhưng anh biết chắc chắn rằng anh không có đủ số chiến binh để chiếm lại nó. Những người lính Green Berets đã được thông báo là quân tiếp viện đang trên đường đến- họ chỉ cần phải giữ căn cứ của họ không rơi vào tay địch, sống sót, và chờ đợi. Họ bắt tay vào việc phân phối tiếp tế thực phẩm, nước, đạn dược, sơ cứu người bị thương, nhưng những cung cấp thêm sẽ phải được thả dù, hỏa lực cuả địch quân hiện nay rất mãnh liệt nên trực thăng không thể hạ cánh xuống căn cứ.  


Vào đầu buổi chiều, đại đội 202 Tác chiến cơ động (Mike Force) đã thành công trong nỗ lực chiến đấu và đã tiến được vào căn cứ. Hai đại đội còn lại là đại đội 203 204 cũng là một phần của lực lượng tiếp viện, nhưng đã bị ghìm chặt bởi hoả lực cối và vũ khí cá nhân cuả đối phương buộc phải rút lui. Đại đội 202, bao gồm các chiến binh người Thượng, những chiến binh của lực lượng đặc biệt Việt Nam (LLĐB/VNCH), và các thành viên của Đội Huấn luyện Quân đội Úc (cố vấn Úc) sau những vồn vã chào mừng, các chiến binh trong tiền đồn bị bao vây hối hả chuẩn bị để sống sót qua đêm và chống chọi lại các cuộc tấn công liên tục cuả địch.

Các đợt tấn công biển người không ngừng của quân Bắc Việt với đạn cối B40 hỗ trợ liên tục trong suốt cả ngày. Các chiến binh Mỹ và đồng minh của họ bắt đầu thiếu hụt đạn dược, vật tư y tế và nước. Không quân đã cố gắng thả dù tiếp tế, nhưng hầu hết các dù tiếp tế đều bay ra ngoài chu vi của trại và đã không thể thu hồi vì hoả lực dữ dội của đối phương. Tiếp tế giờ này rất quan trọng - nếu không có nó, sự sống còn qua đêm cuả căn cứ thật đáng ngại.

Dan Shepherd biết có một túi nước ở gần bệnh xá, anh nói với Mike Dooley đi lấy chiếc xe jeep và anh chạy vào khu hầm chính để lấy vài can nhựa loại 5 gallon dùng để đựng nước. Ngay vào lúc đó, một trái đạn nổ đúng vào góc bên của tòa nhà, hất tung anh ta rớt xuống sàn nhà và phun lên lưng người chiến binh trẻ với những mảnh đạn sắc lẻm, nóng hổi. Trong một khoảnh khắc anh nằm choáng váng và người cứng đờ... may mắn là có Dooley kế bên, với sự giúp đỡ của Dooley, anh từ từ đứng lên và bằng chính sức mình, anh đã tự tìm về căn hầm y tế. Một y tá người Thượng cắm một mũi IV trong cánh tay của anh, sau đó Dooley đã giúp vực anh lên một chiếc giường và giúp băng bó vết thương trên người.

Một giờ sau, một người nào đó đã vừa lắc anh vừa la hét, "Dậy đi, Kline đã bị thương rất nặng!" Shepherd cố gắng để nhớ ra tình trạng hiện tại lẩm bẩm "Hãy để tôi ngủ," nhưng giọng nói vẫn cố tiếp tục. "Kline, Umeda, thiếu tá, họ đều đã bị trúng đạn" Bây giờ mới tỉnh hẳn, Shepherd cố gắng đứng dậy. Tóm chặt lấy khung rầm cửa, anh lắc đầu vài lần nữa, cố gắng để nhìn cho rõ ràng hơn, sau đó loạng choạng lên cầu thang, bước từng bước ra khỏi căn hầm y tế.

Khoảng 1600 giờ,trung sỹ Harold Kline và trung sỹ mũ xanh Shigeo Umeda đang đứng bên ngoài hầm chỉ huy cùng thảo luận về cuộc bao vây với thiếu tá Greenwood và vài sĩ quan Việt Nam. Bất chợt không hề có báo động trước, một trái đạn đã phát nổ ngay trước mặt họ, và toàn khu vực bị băm nát với hoả lực súng tự động, tiếp theo là những hoả tiễn bổ sung.

Lawrie Jackson, một sỹ quan chỉ huy người Úc cuả đại đội 202 Mike Force, chộp lấy Umeda lúc đó đang la hét, kéo anh đến đầu cầu thang hầm chỉ huy, và chạy đi tìm thêm người giúp đỡ. Tất cả những người bị thương đã được khiêng vào hầm chỉ huy khi Shepherd xông tới, anh nhanh chóng kiểm tra tình trạng các chiến binh đang nằm trong vũng máu.

Jim Alward, người đang nằm nghỉ ngơi trong hầm chỉ huy, hiện đang ngồi trên sàn nâng giữ Kline ngang đùi cuả mình. Chân của Kline nằm vắt ngược trên sàn nhà một cách kỳ quặc, và anh nằm rất yên, không cử động.

"Kline sao rồi?" Shepherd hỏi.

Alward ngẩng đầu lên nhìn vào Shepherd, im trong một khoảnh khắc, sau đó lặng lẽ nói: "tao nghĩ nó chết rồi!"

Chàng y tá cứu thương quỳ bên cạnh cơ thể của người trung sĩ trẻ. Cởi chiếc áo vest chống đạn, kiểm tra ngực, sau một giây im lặng hoàn toàn. Shepherd nói
nhỏ: "nó chết rồi!", hơi cúi đầu quay đi. Sau đó anh đứng dậy, đứng thẳng vai, và bắt đầu tiến hành cấp cứu những chiến binh bị thương khác. Tại Đức Lập, người chiến binh mũ xanh đầu tiên vừa tử trận.

Còn tiếp... 
Tiếng Việt do 42.
Based on Chapters 20 & 21, "Unlikely Warriors: The Army Security Agency's Secret War in Vietnam 1961-1973" by Lonnie M. Long and Gary B. Blackburn.

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014

Trận Đức Lập 1968. Phần 1/4

Bắt đầu là những tiếng gầm rung trầm trầm trong đêm, và trận chiến xảy ra sau đó đã thay đổi cuộc sống cuả 12 chiến binh biệt kích mãi mãi - Đức Lập.

PHẦN 1

Đêm nóng, ẩm ướt, và đen kịt như trong hũ nút. Đó là khoảng 0100 giờ đêm, khi tiếng ầm ầm từ xa đánh thức chuẩn úy William Harp. Harp chỉ huy lực lượng đặc biệt A-Team, đặt tại căn cứ cuả Lực lượng dân sự chiến đấu (gọi là A-239) tại Đức Lập. Một nửa quân số cuả nhóm ông đang làm nhiệm vụ, trong khi đó phần còn lại đang nghỉ ngơi trong những lô cốt được gia cố chắc chắn nằm sâu bên trong khu trại trên đỉnh đồi của họ. Thượng sỹ nhất Ted Boody một trung đội trưởng đang viết một lá thư cho vợ, Trung sỹ âm thoại viên Mike Dooley, một tài năng vẽ tranh biếm họa đang vẽ những hình ảnh để gửi cho đứa con trai năm tuổi của mình ở California. Các chiến binh khác thì hoặc chơi bài hoặc đọc sách. Họ cũng đồng thời nghe tiếng gầm rùng rùng, giống như tiếng sấm xa xôi, mọi người đều biết là một vụ pháo kích đang diễn ra ở đâu đó trong khoảng cách xa xa. Mở cánh cửa thép của căn hầm được gia cố chắc chắn của họ, những người chiến binh quan sát bầu trời không trăng và thấy nhấp nháy ánh sáng xẹt về phía tây, phía trụ sở tổng hành dinh. Đó là thứ Sáu ngày 23/8/1968, và đó là những tín hiệu khởi đầu của trận tấn công Đức Lập.  


        Hình chụp ngày đầu cuộc chiến với hầu hết những tên người trong câu chuyện (photo: James Alward)

"Mọi người sẵn sàng ... tập họp!" Harp hét lên... Trung sỹ Don Childs, trung sỹ Jim Alward, Trung sỹ Daniel Hall, là những chiến binh của Biệt đội 403 tác chiến đặc biệt thuộc ASA (quân báo), trung sỹ y tá biệt kích  Daniel Shepherd là một trong số những người đang ngủ khi báo động vang lên. Những người chiến binh mặc gấp quần áo và nhanh chóng tập họp cùng phần còn lại của nhóm mũ nồi xanh trong hầm. Một báo cáo từ tổng hành dinh Đức Lập cho biết trụ sở bị tấn công nặng nề và cần viện binh ngay tức khắc. Trung sĩ tiểu đội trưởng Boody lập tức liên lạc đến tổng hành dinh cuả B-Team đặt tại Buôn Ma Thuột để thông báo cho họ về cuộc tấn công, và phần còn lại của toàn đội lập tức tản ra những vị trí phòng thủ được giao.

Jim Alward cúi thấp đầu trong trong cái hố súng cối 81ly và chú ý nhìn ra ngoài bóng tối dày đặc của đêm đen, trong lòng tự hỏi những chiến binh biệt kích người Thượng của ông hiện đã ở đúng vị trí phòng thủ chưa! Thượng sỹ Howard Blair, một chuyên gia về vũ khí hạng nhẹ và là một trong những chiến binh kỳ cựu cuả toán biệt kích, đã được chỉ định vào cái hố cối 81ly thứ nhì. "Shep" Shepherd, y tá biệt kích đang phụ giúp anh ta, và thượng sỹ Harold Kline, chuyên viên vô tuyến đang được biệt phái từ biệt đội B-57 (Dự án Gamma) tại Nha Trang, được phân công vị trí khẩu cối 81ly thứ ba, quỳ bên cạnh anhDon Childs, người mà toàn đội gọi là "short-timer" (hết giờ) là người chỉ có sáu ngày còn lại ở chiến trường VN trước khi quay trở về Mỹ.

Đột nhiên, đạn cối và đạn B-40 đồng loạt phát nổ dữ dội bên trong hàng rào kẽm gai bao quanh trại. Những âm thanh của vũ khí tự động súng cá nhân rộ lên như muốn cắt nhỏ không khí ban đêm, các chiến binh  trong nhóm lực lượng đặc biệt có thể nhìn thấy những tia lửa phát ra súng của đối phương khoảng cách xa xa. Hai biệt kích người Thượng leo vào hố số một bên cạnh Alward và bắt đầu chuẩn bị thao tác tiếp đạn súng cối. Chắc chắn đêm nay sẽ là một đêm dài!


                                                         Đại bác 57 ly không giật tại A-239

Childs Kline tác xạ liên tục những loạt đạn chống biển người dọc theo phía bắc và phía đông, trong khi Daniel Hall và trung sĩ Roland Vas bắn lên trời những trái cối hoả châu nhằm chiếu sáng cho các binh sĩ người Thượng đang chiếm giữ bảo vệ các chiến hào chung quanh vành đai của trại. Mike Dooley vẫn ở vị trí ụ súng của anh tác xạ khẩu đại bác 57 ly không giựt. Áp lực tấn công ngày càng tăng, hoả tiễn B-40 phát nổ chung quanh trại mỗi hai phút. Các ổ súng cối 81mm đã bắn khoảng hai mươi đến ba mươi viên đạn mỗi phút và tiếp tục bắn cho đến khi nòng súng của họ quá nóng, các chiến binh nhanh chóng dội nước làm mát vũ khí của họ và tiếp tục bắn và cứ thế, được lặp đi lặp lại trong hơn hai giờ.

Một chiếc máy bay AC-47 "ma quái" có mặt ngay từ những giờ đầu cuộc chiến. Ba khẩu minigun của máy bay khạc ra với tốc độ 6.000 viên đạn một phút và trong mỗi cú xiết cò súng dài 3 giây, nó có thể cắm xuống đất cứ mỗi 6 feet một viên đạntrải rộng trên một diện tích năm mươi hai yard. Quân đội Bắc Việt đều ​​khiếp sợ vũ khí này lý do rất chính đáng, chiếc "ma quái" (Spooky) có thể một xoá sổ một đơn vị lớn chỉ trong một đợt càn quét bằng minigun.

   
                                                         Spooky, AC-47 (U.S.A.F.)                                    

Cùng với ánh sáng bình minh buổi sáng, máy bay không quân chiến thuật đến hiện trường và tấn công các vị trí của đối phương. Khoảng 0930, Jim Alward đang đứng bên ngoài căn hầm theo dõi đội máy bay phản lực thực hiện nhiệm vụ và thầm ngưỡng mộ kỹ thuật chuyên môn của các phi công. Trong một pha tấn công mặt đất, anh nhìn thấy một chiếc F-100 "Super Sabre" xà xuống rất thấp, và sau đó sửng sốt nhìn quầng lửa bùng lên sau đuôi của nó đồng thời một chấm đen bật ra, bung ra một cái dù. Chiếc máy bay tiếp tục trên đà lao xuống của mình, bùng nổ dữ dội trong một quả cầu lửa khi nó chạm đất tại ngọn đồi ở phía bắc. Viên phi công nhẩy dù ra một cách an toàn, nhưng chiếc dù đang rớt xuống ở khoảng cách nguy hiểm rất gần lãnh thổ đối phương kiểm soát gần khu làng. Không có thời gian để mất ở đây! 


Chộp lấy khẩu carbine của mình, Mike Dooley nhảy vào một chiếc xe jeep phóng xuống đồi về phía cửa chính. Nhóm hướng dẫn phi hành (FAC) đã liên lạc để yêu cầu trực thăng vũ trang bảo vệ, sau đó Boody, Alward, Hall và Childs đã cùng với các chiến binh khác trong một chiếc xe jeep thứ hai và một chiếc xe tải nhẹ khác cùng tăng tốc đuổi theo xe cuả Dooley. Shepherd khi đó đang ở trong bệnh xá gần cổng phía trước khi Dooley ào đến cùng với một đám mây bụi. Dooley đã la lớn để các quân cảnh gác cổng di chuyển các dây concertina đã được xâu thành chuỗi ngang qua con đường trước cổng, và họ vội vã chạy đến để giúp anh. Khi Shepherd biết được rằng một chiếc máy bay đã bị bắn rơi, anh cũng chộp lấy vũ khí của mình và túi xách dụng cụ y tế và nhảy vào chiếc xe jeep cùng với Dooley. Hai chiếc xe sau đã bắt kịp, sau khi tải thêm một nửa tá lính biệt kích ở phía sau của xe tải, đoàn xe lộn xộn những chiến binh phóng ra cửa xuống con đường hướng tới khu vực tiếp đất của người phi công lâm nạn. Cho đến giờ, không hề có phát súng nào cả!

Khi đoàn xe ngừng hẳn về phiá bên kia ngôi làng, Dooley Childs nhảy ra và chạy băng băng trên cánh đồng trống về phiá chiếc vẫn còn cuồn cuộn. Những chiến binh khác bảo vệ hai bên sườn của họ và căng mắt theo dõi tung tích quân địch. Đạn súng nhỏ và AK-47 bắt đầu rít phần phật qua những thân cây ở các góc của cánh đồng. Địch quân đang nhanh chóng tiến đến, mục đích tìm bắt viên phi công F-100 mà họ vừa mới bắn rớt. Từ trên đỉnh đồi khu căn cứ, các chiến binh quan sát có thể nhìn thấy những người lính Bắc Việt đang di chuyển từ phía tây băng ngang qua để cắt đứt con đường trở lại của nhóm chiến binh cứu hộ.

Trong khi đó, các chiến binh cứu hộ không tìm thấy người phi công mà họ đang cố gắng giải cứu. Mọi người tản ra chung quanh để tìm kiếm, cuối cùng Hall và Shepherd tìm thấy người phi công ẩn trong một bụi rậm ở bìa rừng. Người phi công sau đó thú nhận là anh đã gần như bắn Dooley khi anh ta chạy xuống đường mòn, lo sợ là địch quân. Nhưng điều quan trọng bây giờ với mọi người là trở về căn cứ. Tiếng đạn phóng rít qua tàng cây rộ lên như tiếng đàn ong vò vẽ trong cơn tức giận, càng ngày càng tăng lên. 


                    Không quân chiến thuật yểm trợ tại Đức Lập, ngày 23/08/1968 (photo: James Alward)
  
Đúng tại thời điểm đó, hai chiếc trực thăng vũ trang xuất hiện trên khu vực. Hiện lên như hai con chuồn chuồn khổng lồ trên bầu trời trong trẻo, với những nhịp súng minigunscắt qua những tán lá hình thành một bức tường thép xung quanh nhóm nhỏ những người lính biệt kích. Những người chiến binh vội vã phóng lên con đường hẹp, vừa kéo vừa đẩy người phi công trẻ lên xe của họ, và với hai chiếc gunships bắn bảo vệ hai bên, họ tăng hết tốc lực trở lại khu trại kiên cố tương đối an toàn của họ.

Khi các trại Lực Lượng Đặc Biệt tại Đức Lập bị tấn công, nó phải hứng chịu trận tấn công với quân số thiếu hụt. Thời điểm đó có mười hai lính mũ nồi xanh (Green Berets), bao gồm ba chuyên viên kiểm thính Morse thuộc ASA, Hill, Alward, Childs. Sáu lính Lực lượng Đặc biệt (Lực lượng đặc biệt/VNCH), một trung đội Trinh sát người Thượng với ba mươi lăm chiến binh, mười bảy người Thượng quân cảnh làm nhiệm vụ  bảo vệ cổng chính, và 220 người Thượng thuộc Dân sự chiến đấu gồm: 163 người thuộc đại đội 1 và 2 đóng trên đồi chính và 57 người Thượng thuộc đại đội 3 và 4 đóng trên ngọn đồi nhỏ ở phía bắc của trại. Đó là tổng cộng 290 binh sĩ sẵn sàng cho phòng thủ. Phần còn lại của lực lượng, bao gồm hầu hết nhân sự cuả đại đội 3 và 4 cùng các các cố vấn mũ xanh của họ đang làm nhiệm vụ tuần tra thường xuyên dọc theo biên giới Campuchia. Hầu hết các người Thượng đều có gia đình sống chung với họ bên trong các hang động hầm công sự đã được đào xen kẽ trong các đường giao thông hào bảo vệ đồi.

Toán lực lượng đặc biệt Mỹ sẽ không có cách nào để biết rằng trước rạng đông, căn cứ A-239 và 290 chiến binh bảo vệ nó sẽ bị tấn công bao vây, không phải do một đại đội Việt Cộng (tức MTGPMN) hay Bắc Việt, nhưng do trung đoàn Hồng Lĩnh (95C) bộ đội Bắc Việt. Với quân số khoảng 1,500 tới 2000 lính bộ binh được đào tạo kỹ lưỡng, và họ được hỗ trợ bởi các đơn vị của Trung Đoàn 320 và Tiểu đoàn 8 thuộc Trung Đoàn 66, tất cả thuộc quân số của Sư Đoàn 1 CSBV. Với các đơn vị hỗ trợ khác nhau, kết hợp lực lượng địch trong vùng Đức Lập đạt khoảng 4.000 quân chiến đấu giàu kinh nghiệm.

Còn tiếp...

Tiếng Việt 42,
Based on Chapter 20, "Unlikely Warriors: The Army Security Agency's Secret War in Vietnam 1961-1973" by Lonnie M. Long and Gary B. Blackburn.


Thứ Hai, 1 tháng 9, 2014

Trận tấn công đồi Hickory #2/2

Trận tấn công đồi Hickory ​​- Tháng 6 năm 1971
 

Trong hai ngày tiếp theo, với sự giúp đỡ của Đại úy Valersky, các chiến binh người Mỹ và người Thượng làm việc để tăng cường phòng thủ cứ điểm của họ. Tiền đồn vẫn đặt trong tình trạng báo động cao và các toán trinh sát đã được tung ra xa để thám sát việc di chuyển quân Bắc Việt trong các thung lũng bên dưới. 

Ngày 04/06, sáng sớm trước khi bình minh, trung sỹ Roger Hill và ba lính mũ nồi xanh khác đang ở trong khu vực sân bay trực thăng phiá bên ngoài chu vi phòng thủ của tiền đồn lúc họ bắt đầu bị tấn công bằng hoả lực vũ khí hạng nhẹ, trung sỹ Hill bị thương ở tay phải. Lực lượng Cộng quân trên ngọn đồi cao hơn 1015 và phía Bắc của đồi 950 đã chính thức bắt đầu cuộc tấn công của họ vào các chiến binh lực lượng đặc biệt ở khu trại với vũ khí tự động, hoả tiễn, súng B40, và súng cối. 

Trung sỹ Ralph Morgan chộp lấy khẩu M16 và bắt đầu nhả đạn về phiá bóng tối, anh đồng thời di chuyển đến bức tường phía đông đối mặt với đồi 1015, và tìm cách di chuyển đến ụ súng đại liên M60, ở đây anh đã khai hoả liên tục, cố kéo sự chú ý cuả địch quân về phiá mình, Morgan đã giúp cho các đồng đội của mình có đủ thời gian để có thể rút an toàn vào trở lại bên trong công sự một cách an toàn. 

Khi cuộc tấn công bắt đầu, nhóm phòng thủ lực lượng đặc biệt bao gồm: Trung sỹ nhất Jon Cavaiani, trung đội trưởng, trung sỹ Robert Jones, trung sỹ Roger Hill, trung sỹ Ralph Morgan, trung sỹ Larry Page và đại uý John Valersky. Ngoài ra còn có mặt thiếu úy George "Skip" Holland, một tiền sát viên thuộc đại đội A, đoàn 8/4th Pháo binh diện điạ từ căn cứ Caroll. Đồi 950 cũng được sử dụng bởi các binh sỹ cuả phân đội kỹ thuật đặc biệt thuộc đơn vị bộ binh 1/5th (Mech) để đọc các cảm biến chuyển động chôn dọc trên đường mòn Hồ Chí Minh (các cảm biến về độ rung mặt đất, cho biết về những di chuyển cuả địch dọc theo đường mòn). Hai chuyên viên về đọc tín hiệu cảm biến có mặt trên đồi Hickory tại thời điểm cuộc tấn công sảy ra là Trung sỹ Robert Garrison và trung sỹ Walter Millsap. Lực lượng phòng thủ nhỏ bé cũng đồng thời bao gồm khoảng 30 chiến binh biệt kích người Thượng và một y tá Việt Nam, và căn cứ đang dần dần bị bao vây bởi một số khoảng chừng 4-600 chiến binh thiện chiến Bắc Việt. 

Trung sỹ Millsap di chuyển về phiá hàng rào chu vi của trại bắn M16 và ném lựu đạn về phiá địch đang tấn công, khi nguồn lựu đạn của anh đã hết, anh chuyển đến một ụ súng máy và tiếp tục bắn vào lực lượng địch đang tiến tới. Bất chấp hoả tiễn và đạn súng cối đang nổ chát chuá chung quanh anh ta, Millsap tiếp tục tác xạ bằng khẩu súng máy của mình cho đến khi một hoả tiễn của đối phương phát nổ sát bên cạnh ụ súng và thổi văng anh ta ra khỏi vị trí. Sau khi được băng bó sơ sài, anh trở lại ụ súng máy và tiếp tục tác xạ vào địch quân, ụ súng của anh bị trúng thêm một trái B40, trái hoả tiễn này đã phá hủy khẩu súng máy và làm chàng chiến binh bị thương lần thứ hai. Bất chấp những vết thương của mình, Millsap đã chộp khẩu M16 cuả mình và tiếp tục bắn vào địch cho đến khi ông được lệnh rút khỏi khu vực chu vi và chờ đợi lực lượng tiếp viện để rút khỏi tiền đồn. Trong khi hỗ trợ một sĩ quan khác đang bị thương (Valersky hoặc Holland), anh đã bị thương lần thứ ba bởi một trái hoả tiễn khác phát nổ khi anh cố che chắn viên sỹ quan với cơ thể của mình. 

Trung sỹ Millsap, trung sỹ Hill, thiếu úy Holland và đại úy Valersky đều bị thương trong một khoảng thời gian rất ngắn, Valersky nhận ra rằng tiền đồn đang trong tình trạng nguy hiểm rất nghiêm trọng và ra lệnh với trung sỹ Page, người hiệu thính viên cuả trung đội, xin lệnh sơ tán y tế, tiếp theo đó là lệnh cho phép di tản hoàn toàn khu vực đồi hoả lực. Trung sỹ Page liên lạc với Lực lượng can thiệp đặc biệt (Special Forces Mobile Launch Team, MLT2) tại Quảng Trị, thông báo với họ về số lượng tổn thất ngày càng tăng của lực lượng phòng thủ và yêu cầu họ trợ giúp. 

Hai trực thăng cứu thương "Dustoff" đã được gửi đến đồi Hickory nhằm di tản những chiến binh bị thương: chiếc "Curious Yellow" và "My Brother's keeper". Sau khi những chiếc trực thăng võ trang Cobra gunships và máy bay phản lực F4 Phantom tấn công bộ đội Bắc Việt, chiếc trực thăng "Curious Yellow" (được điều khiển bởi thiếu úy Dave Hansen) đã có thể hạ cánh trên đồi 950 vào khoảng giữa trưa. Những người lính Mỹ bị thương đã nhanh chóng được đưa lên máy bay trực thăng cùng với một số chiến binh người Thượng bị thương. 

Hành động cuối cùng cuả Đại úy Valersky trước khi được tải thương lên trực thăng là ra lệnh phá hủy tất cả các tài liệu mật và thiết bị. Hệ thống Explorer tối mật cuả NSA nằm ở đầu danh sách cần phải phá huỷ ngay tức khắc, phải chắc chắn rằng trong bất kỳ hoàn cảnh nào những công nghệ tiên tiến này không được phép rơi vào tay địch quân. Nga và Cộng sản Trung Quốc hiện vẫn còn lọt lại rất xa hàng năm trời về kỹ thuật chiến tranh điện tử, và sẽ họ làm bất cứ điều gì để có được một trong những hệ thống "kiểm thính từ xa" Explorer này trong tay. Âm thoại viên Larry Page được ra lệnh chỉ huy việc tiêu hủy này và bắt đầu kích hoả các chất cháy đặc biệt gắn trên nóc của các kệ đặt máy. Sau khi kích hoả, sức nóng gần như năng lượng mặt trời của tấm nhiệt sẽ tiêu hủy tất cả mọi thứ trong căn hầm được bảo vệ này. 

Sau khi chiếc Huey đáp xuống, súng cối của địch và vũ khí hạng nhẹ nã tới tấp một đợt mới một cách dữ dội. Mặc dù chỉ chạm mặt đất vài phút, chiếc trực thăng "Curious Yellow" bắt đầu lãnh đòn. Ngay khi Hansen nâng chiếc Huey khỏi mặt đất, anh đã thực hiện kỹ thuật bay "Lá rơi" để tránh đạn, chiếc trực thăng tuột sát theo vách đá thẳng xuống ở bức tường phía nam để xạ thủ Bắc Việt không thể "nhắm bắn" máy bay của mình. Bất chấp nỗ lực của anh, "Curious Yellow" vẫn bị trúng đạn một lần nữa và bị hư hỏng nặng, giàn bảng đèn kiểm soát, điều khiển cuả trực thăng rực lên màu đỏ cuả đèn báo động nháy liên tục, Hansen nhận ra rằng hệ thống thủy lực của trực thăng đã bị phá hỏng, chiếc trực thăng Dustoff sẽ không đủ sức để bay về đến khu vực bệnh viện ở Quảng Trị. 

Phi công của chiếc "My Brother's keeper" Thiếu uý Steve Woods, nhìn thấy đằng đuôi cuả "Curious Yellow" một làn sương trắng phụt ra theo đường bay, mà anh biết là chất lỏng thủy lực. Woods hủy bỏ tức khắc ý định đang chuẩn bị hạ cao độ vào vùng đồi Hickory, và tức tốc đổi hướng bay cặp theo sau "Curious Yellow" trong khi đó Hansen đang cố hết sức để điều khiển chiếc trực thăng bị thương bay đến khu căn cứ chiến đấu cũ cuả TQLC đã bỏ hoang tại Khe Sanh, phía nam của quả núi. Dave Hansen đã cố duy trì được khả năng kiểm soát máy bay và đã hạ cánh khẩn cấp thành công. Chiếc trực thăng "My Brother's keeper" cũng đồng thời hạ cánh xuống tức thì gần ngay bên cạnh "Curious Yellow", giải cứu thủy thủ đoàn và các chiến binh bị thương (khoảng 14) và nhanh chóng bốc lên khỏi mặt đất với cỡ hai mươi người nêm chật ních trên trực thăng. 

Sau buổi trưa, hầu hết những chiến binh bị thương nặng đều đã được di tản, giờ đây xuất hiện nhiều trực thăng "slicks" hơn (là tiếng lóng gọi những chiếc Hueys không có vũ khí) đến Hickory vào buổi chiều và di tản hầu hết các chiến binh phòng thủ còn lại, bao gồm cả trung sỹ Garrison, trung sỹ Page và trung sỹ  Morgan. Ralph Morgan cho biết sau đó, ông đã cố gắng thuyết phục Cavaiani và Jones để di tản cùng với họ nhưng Cavaiani từ chối rời bỏ các chiến binh biệt kích người Thượng. Morgan nói: "... không hiểu tại sao họ từ chối di tản khỏi đó vì chắc chắn rằng khu căn cứ sẽ thất thủ. Không còn cách nào có thể bảo vệ căn cứ được nữa ... là phòng tuyến cuối cùng về phía đông, phải đối mặt với đồi 1015, chiến đấu với chỉ một khẩu đại liên M60, bây giờ thì không có gì bảo vệ vùng giáp nối giữa đồi 1015 và 950, và địch quân chỉ cần đi bộ vài bước từ đó qua đây". Morgan yêu cầu được ở lại với nhóm chiến binh còn lại, nhưng Cavaiani, mang cấp bậc cao nhất trong các hạ sĩ quan, ra ​​lệnh cho anh phải rời khỏi và nói rằng ông và Jones sẽ ở lại với các biệt kích người Thượng.

Các nguồn tin khác lại cho biết là chiếc trực thăng cuối cùng di tản đã quá tải, và hai chiến binh mũ xanh là Cavaiani và Jones đã tình nguyện ở lại trên đồi khi "slick" ra đi. Ngoài Cavaiani và Jones, khoảng hai mươi biệt kích người Thượng vẫn trụ lại để bảo vệ cứ điểm Hickory chống lại một tiểu đoàn Bắc Việt quyết tâm quét sạch các tiền đồn hiểm yếu. 

Trước bình minh ngày 05/06, các lực lượng quân Bắc Việt phát động cuộc tấn công cuối cùng của họ, đồi  Hickory được phủ dầy đặc trong sương sớm, ngăn ngừa bất kỳ ý định mới nào của các máy bay trực thăng định di tản hoặc hỗ trợ không quân chiến thuật cho khu vực. Nhóm chiến binh xử dụng một loạt những vũ khí tự động và lựu đạn lửa, nhưng nó đã có rất ít tác dụng để làm chậm đi sự tấn công liên tục của đội quân Bắc Việt. Trung sĩ Cavaiani và Jones cùng nhóm chiến binh người Thượng còn lại rút bỏ ra khỏi nửa phía đông của trại và củng cố vị trí chiến đấu của họ xa hơn khỏi phiá quân đội Bắc Việt đang tiếp tục tấn công từ phía Đông trên vùng yên ngựa giữa hai quả đồi. 

Một thời gian ngắn sau lúc 0500 sáng, trước khi đội quân Bắc Việt tràn ngập và quét qua toàn bộ tiền đồn, Cavaiani và Jones ra lệnh cho những biệt kích người Thượng thử và tìm cách hoát khỏi đỉnh núi. Họ đã chiến đấu dũng cảm và bây giờ từng nhóm nhỏ hai hoặc ba người, các biệt kích âm thầm thả rơi theo vách đá mặt bên của bức tường phòng thủ ở phía Tây và biến mất vào bóng tối mù sương cuả rừng già. Khoảng mười ba chiến binh biệt kích được biết chắc là đã sống sót, nhưng số phận của những người khác là không rõ. Nếu họ bị bắt, họ đã chắc chắn đã bị giết!

Cavaiani và Jones đều đã bị thương và rút lui đến một hầm trú ẩn tại vành đai phía đông bắc của tiền đồn để thiết lập một điểm cố thủ cuối cùng. Cuộc tấn công tiếp tục dữ dội, một quả lựu đạn được tung vào hầm trú ẩn, và Jones bị thương ở chân, anh cố đứng dậy, thực hiện một động thái cuối cùng để cố thoát ra khỏi hầm trú ẩn, và đã bị bắn gục bởi một người lính Bắc Việt với nguyên tràng đạn AK, ba phát tung toé lồng ngực. Đà phóng tới của anh ta giữ đứng anh tại chỗ cũng gần một giây trước khi Jones đổ bật ngửa vào trong hầm, và rớt thẳng đè lên người của Cavaiani. Cavaiani bị chảy máu đầm đìa và nằm giả vờ chết khi quân Bắc Việt lục soát hầm trú ẩn, nhưng anh bị buộc phải bò ra khi địch xịt lửa vào hầm bằng súng phun lửa. Mặc dù bị nhiều vết thương và bị bỏng nhiều, Jon Cavaiani sống sót sau trận chiến và bị bắt làm tù binh sau đó. 

Khi mặt trời mọc trên các đỉnh núi lân cận, chút ánh sáng nhợt nhạt của nó giúp ta có thể nhìn thấy qua tấm màn khói cay xè và sương mù dày đặc treo lờ lững trên đồi 950, khung cảnh tàn phá cuả khu căn cứ hiện dần ra trong một ảo ảnh kỳ lạ. Một cơn gió nhẹ thổi bay là là một mẩu giấy in báo cũ trên mặt đất trộn lẫn với làn bụi đỏ bay trên mặt đất, và tất cả đều im lặng. Cuộc chiến ở Hickory Hill đã kết thúc!

Khi thời tiết thoáng đủ cho phép máy bay trực thăng đáp xuống khu trại trên đỉnh núi, toàn bộ khu vực đã hoàn toàn vắng vẻ, và không có bất cứ dấu vết gì lưu lại của hai người lính mũ xanh Mỹ. Cả hai chiến binh mũ xanh trung sỹ nhất Cavaiani và trung sỹ Jones được cho là đã chết và được liệt kê như MIA (chết mất xác). Một vài tháng sau đó Jon Cavaiani được xác định là một tù binh chiến tranh, anh đã bị cầm tù trong gần hai năm tại một trại ở miền Bắc Việt Nam được gọi là Khu Đồn điền, và sau đó được chuyển vào Hà Nội ở trại tù nổi tiếng "Hilton" trước khi được trao trả tù binh trong "Operation Homecoming" vào năm 1973. Cavaiani nặng gần 90 Kg khi bị bắt làm tù binh, khi được thả anh nặng chỉ hơn 40 Kg!

Sau khi được trao trả từ Bắc Việt, Cavaiani mới biết rằng anh đã từng được đề nghị tặng thưởng Medal of Honor cho hành động của mình trong việc chiến đấu bảo vệ đồi Hickory. Tổng thống Gerald R. Ford trao tặng huy chương cho anh tại một buổi lễ ở Nhà Trắng vào ngày 12/12/1974. Cùng với những huy chương quân sự bổ sung của anh là Legion of Merit, Huy chương đồng và Purple Heart (chiến thương bội tinh)

Trung sỹ John Robert Jones vẫn được ghi nhận là mất tích trong suốt bốn mươi năm. Vào tháng 8/2011, cựu trung đội trưởng lực lượng đặc biệt Cavaiani và cựu âm thoại viên cuả trung đội Larry Page cùng với một nhóm JPAC (nhóm tìm kiếm hài cốt lính Mỹ) trở lại đồi Hickory để tìm kiếm Jones, và nhóm đã thành công. Sử dụng hồ sơ nha khoa và ADN, nhận dạng của Jones đã được khẳng định, và trung sỹ Robert Jones trở về nhà.  

Vào ngày 06/12/2012, tại một buổi lễ với sự tham dự của các viên chức chính phủ, Lực lượng Đặc biệt và các cựu chiến binh Quân báo, bạn bè và gia đình, phần hài cốt còn lại cuả anh được chôn cất tại nghĩa trang Quốc gia Arlington. 

Jones đã được ân thưởng Huy chương Silver Star, huy chương đồng với "V" cho dũng cảm và Oak Leaf Cluster, Purple Heart, và RVN Gallantry Cross. Anh tử trận lúc 22 tuổi. 

Trong số các huy chương bổ sung cho hành động dũng cảm trên đồi Hickory: Trung sỹ Walter Millsap, thuộc lữ đoàn bộ binh 1/5th, đã được trao Distinguished Service, Đại úy John Valersky và trung sỹ Ralph Morgan, USASF, đã được trao huy chương Bạc.

Tiếng Việt do XâyXậpZì.
Based on Chapter 25, “The Explorer Saga”, “Unlikely Warriors: The Army Security Agency’s Secret War in Vietnam 1961-1973” by Lonnie M. Long and Gary B. Blackburn, iUniverse, 2013.