Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2016

Duterte, người luôn yêu cộng sản-ngoại trừ khi tiêu diệt bỏn.

Duterte, người cộng sản?

Ký ức vẫn nóng hổi khi chàng phóng viên Washington Post, Keith Richburg được sự chấp thuận cho gặp mặt phỏng vấn của cảnh sát trưởng thành phố Davao, Đại tá Franco Calida vào năm 1987, ông vẫn như thấy mình lần theo những vệt đẫm máu loang lổ trên bậc cầu thang gỗ dẫn đến văn phòng ở tầng 2 của lực lượng cảnh sát Philippines.

Chồng chất bên ngoài như những đống củi là xác của các thành viên Quân đội nhân dân mới (NPA)-lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Philippines-mới bị giết chết đêm trước bởi lực lượng đặc nhiệm-Biệt đội Alsa Masa-được thành lập đặc biệt nhằm tiêu diệt đám cộng sản với ý định tung ra hàng loạt hành động khủng bố sắp tới tại thành phố lớn thứ ba của Philippines...



Hai năm sau, khi là một phóng viên của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông, trong chuyến công tác ở Davao tôi vẫn hầu như cảm nhận ký ức về các vết máu trên từng bậc thang gỗ cái ngày bước lên đó để phỏng vấn về sự thành công vang dội của biệt đội tử thần Alsa Masa trong việc triệt tiêu móng vuốt nguy hiểm của lực lượng NPA ở khu ngoại ô xinh đẹp của Davao này.

Thị trưởng bây giờ là Rodrigo Duterte, một nhân vật nhiều tranh cãi của Philippines, người mà sau này đã theo rập khuôn chính sách tàn bạo trong chiến dịch càn quét ma túy cùng với Jose-em trai của Calida-là cố vấn pháp luật.

Giết người ngoài vòng pháp luật không là mới đối với Philippines, như cuộc phỏng vấn lạnh gáy với tướng Rolando Abadilla, chỉ huy trưởng quân lực của  Tổng thống Ferdinand Marcos, đã dùng từ "đi mò tôm" để mô tả các vụ thủ tiêu cánh tả và các đối thủ chánh trị trong thời kỳ đó.

Khi ông trở thành thị trưởng đầu năm 1988 Duterte đã hân hoan tiếp nhận và xử dụng Alsa Masa, nhưng nhìn kỹ lại nó có vẻ như một nghịch lý kỳ lạ cho một lãnh đạo là Duterte từng tự gọi mình là một nhà xã hội chủ nghĩa và từng có liên kết lâu dài với Đảng Cộng sản Philippines (CPP).

Thật vậy, điều này làm cho Duterte rất khác các đầu nậu chính trị và các giới tinh hoa cũ, những người hay xử dụng những bẫy dân chủ đời mới hoặc kiểu cai trị theo lối phong kiến La tinh lâu đời, kiểu gia trưởng của những thế hệ cũ.

Nền móng có được từ những ngày là sinh viên hoạt động chống Marcos đã củng cố thêm luận điệu chống Mỹ của Duterte, người đã từng chửi Obama là "thằng con, điếm" và đe dọa hạ cấp quan hệ trước đây giữa Manila và Washington.

Mới đây, các nhà kinh doanh đã kiến nghị Duterte loại bỏ những viên chức "cộng sản" khỏi chánh quyền của ông, với lý do họ chỉ chuyên về truyền bá tư tưởng cộng sản hơn là thi hành công vụ. Được tin rằng họ đã ám chỉ đến Bộ trưởng Lao động Silvestre Bello III và thứ trưởng-cựu lãnh đạo quân sự Joel Maglunsod-cả hai người đã thúc đẩy việc tăng mức lương tối thiểu lên 125 peso.

Tổng thống Duterte cũng đã bổ nhiệm hai ứng viên được CPP đề cử là giáo sư đại học Judy Taguiwalo và chính trị gia cánh tả Rafael Mariano, làm tổng thư ký bộ phúc lợi xã hội và cải cách như là một phần nỗ lực của mình để lôi kéo đảng cộng sản Phi CPP vào các cuộc đàm phán hòa bình ở Oslo nhằm kết thúc cuộc chiến 47 năm với cộng sản Philippines.


Lược sử,
Là con trai của một thống đốc, Duterte lớn lên với tình cảm dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ, càng trở nên rõ ràng hơn trong những năm đại học của mình khi ông nghiên cứu khoa học chính trị dưới hướng dẫn của Jose Maria Sison, 77 tuổi, người sáng lập CPP đã sống ở Hà Lan từ năm 1986 và thường gọi tổng thống Duterte là bạn.

Các bạn học cũ nhớ lại rằng ông cực lực phản đối nói tiếng Anh trong lớp học, ủng hộ xử dụng tiếng địa phương nhằm nâng cao dân tộc tính. Tốt nghiệp luật sư, Duterte lúc đó không phải là một thành viên của CPP (Cộng sản Phi) hay NDF (Mặt trận dân chủ Phi) nhưng ông được biết đến là người sắp xếp các cuộc tiếp xúc của nhà báo nước ngoài và các nhà lãnh đạo cộng sản trong những năm đầu thập niên 1980 khi CPP đang trên đỉnh cao.

Nhưng, khi được bầu là thị trưởng Davao đầu năm 1988, ông đã hăng hái xử dụng biệt đội Alsa Masa trong việc thanh toán tội phạm và các chiến binh của lực lượng NPA đã từng trốn thoát, nâng cao tổng số các thành viên của NPA bị tiêu diệt, được biết đến khoảng 104 người chỉ trong tháng 3/1987.

Động cơ của Duterte trong việc xử dụng và tài trợ cho Alsa Masa cũng không rõ ràng, có thể là hành động thanh trừng của chính đảng cộng sản Phi, Duterte có thể được sự ủng hộ của chính CPP trong cố gắng thanh trừng những thành viên bị coi là đi lệch khỏi đường lối chủ nghĩa Mao của đảng cộng sản Phi.

Luật pháp và trật tự luôn là ưu tiên chính của Duterte vì vậy không phải ngẫu nhiên khi ông được tái bổ nhiệm làm thị trưởng vào năm 2001, ông đã nhanh chóng thành lập đội DDS (Biệt đội tử thần Davao) nhằm thay thế nhóm Alsa Masa cũ kỹ. Trong năm kế đó, DDS được biết đã dính líu vào các vụ xử đẹp 1,400 tên tội phạm loại cắc ké-kiểu xử xã hội đen-kết quả của an ninh công cộng dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế mạnh hơn cho khu vực đồng thời cũng khẳng định vị thế của Duterte trong dân chúng.


Thị trưởng Duterte chưa bao giờ được phía Mỹ đề cao, tình trạng càng tệ hơn khi đại sứ quán Mỹ bị ông tố cáo đã giúp đỡ một người Mỹ trốn thoát trong khi bị cáo buộc chịu trách nhiệm về một vụ nổ bí ẩn ở một căn phòng khách sạn Davao vào 5/2002.

Trong khi chính quyền Obama, Liên Hiệp Quốc và chính phủ các nước phương Tây khác chỉ trích gay gắt đợt tàn sát mới nhất của Duterte mà ông đã khôn khéo tránh bị kéo sâu vào một trận chiến tiếng lóng thô tục hơn thì đồng thời ông cũng thật vui sướng hơn khi CPP trực tiếp ca ngợi Duterte về luận điệu chống Mỹ, nói rằng "tình hình bây giờ rất tốt cho một liên minh yêu nước giữa Duterte chống Mỹ và các lực lượng cách mạng và yêu nước". John McBeth

Chuyển ngữ 42.

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016

Chiếc váy 102.


Ngày 19/05/1962 trước 15,000 khán giả trong bữa tiệc sinh nhật thứ 45 của tổng thống J.F.Kennedy, bữa tiệc nhằm gây quỹ cho đảng Dân chủ được tổ chức tại Madison Square Garden, New York. Nữ tài tử Marilyn Monroe đã diện chiếc váy đặc biệt  và hát tặng tổng thống bài hát Happy birthday bất hủ.
Chiếc váy nổi tiếng hiện nay được lồng vào một hình nộm, với số đo chính xác 100% theo cơ thể của Marilyn.

Jean Louis, chuyên viên về design y phục của Hollywood là người được Monroe đặt hàng với yêu cầu kiểu váy chỉ riêng mình cô có thể mặc, duy nhất một mà thôi.

Chiếc váy được gắn hơn 2,500 hạt pha lê, được đính bằng tay, vải được chọn tiệp với màu da của nàng. Khi chiếc váy hoàn thành vào đêm dạ hội Monroe phải trần truồng, không mặc bất kỳ đồ lót nào, chiếc áo được khâu trực tiếp bọc lấy cơ thể của Monroe chỉ thời gian ngắn trước giờ trình diễn.

Chiếc váy bó sát đến độ mà khi hát, Monroe đã phải thở lấy hơi nhiều lần-chính điều này đã làm dậy lên lời đồn đoán-cho đến nay, là Monroe và Tổng thống Kennedy có tình ý với nhau?!

Chính sự lộng lẫy của chiếc váy, việc trình bày bài hát và sự quyến rũ không tả nổi của Monroe đã làm cho chính Tổng thống Kennedy phát biểu câu nói nổi tiếng không kém "Ngay giờ, tôi có thể từ bỏ nghề chính khách sau khi được tặng bài hát Happy birthday ngọt ngào, tinh khiết như vầy", chính câu này cũng gieo thêm nghi ngờ về tình cảm giữa hai người!

Tuần rồi, chiếc váy được nhà đấu giá Julien’s Auctions mang ra đấu giá, giá cuối cùng được trả là 4,8 triệu Dollars, do công ty Ripley’s Believe It or Not mua. Theo thống kê, đây là bộ váy đắt nhất thế giới được ghi nhận, (năm 1999 nhà đấu giá Christie's bán váy này với giá 1,27 triệu Dollars?)

Hãy thưởng thức đoạn video sau để tự đánh giá,


42, Hí hí

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

Anthony Weiner,

Các cụ có câu "Sướng con cu, mù con mắt" nhưng có những trường hợp chẳng sướng gì vẫn bị mù như thường.

Mấy ngày qua, xôn xao vụ FBI mở lại hồ sơ điều tra về Email của VS Hillary, vì từ vụ điều tra tai tiếng về sex của Anthony Weiner FBI đã tìm thấy những dính líu qua lại liên quan đến hồ sơ Email trước đây của Hillary (bé Hì)


Weiner làm gì nên tội, hí hí???
Anthony Weiner, là chồng của Huma Abedin cánh tay mặt của bé Hì trong cuộc tranh cử tổng thống hiện nay. Anthony Weiner là cựu dân biểu của New York từ 01/1999 cho đến ngày từ chức 06/2011, là thành viên đảng dân chủ, được trúng cử với gần 59% phiếu bầu, vinh quang chói lọi cho đến một ngày...

Đó là ngày 27/05/2011, khi Weiner chụp hình mình mặc chiếc quần lót boxing (kiểu quần đùi bằng thun) nổi rõ mồn một trong đó là chú chim đang cương cứng hết cỡ, hí hí sau đó gởi tấm hình cho một nữ sinh viên 20 tuổi, người vẫn follow tài khoản twitter của Weiner. Ngay hôm sau một blogger tên Andrew Breitbart đã chụp màn hình, công bố hình ảnh trên khắp nơi. May mắn thay, lần đó Weiner đã nhanh trí đổ vấy cho tài khoản bị hack, người nào đó định bôi xấu hình ảnh của ông ta.


Hai tháng sau, một cô bé 17 tuổi tại Delaware hào hứng tweet trên mạng "thiệt không thể tin nổi, mình đang tâm tình với Dân biểu Weiner" Cảnh sát nhận được tin báo đã tìm đến cô bé và tìm hiểu coi có bất cứ lời nói, tin nhắn dâm đãng nào đã gởi tới cô không? Weiner sau này đã xác nhận có tiếp xúc qua mạng với cô bé nhưng không có bất cứ hành vi, lời nói nào quá đáng cả.

Rồi ngày 06/06/2011 một bức hình cởi trần của Weiner, tiếp theo sau nhiều tấm hình sexy cuả Weiner gởi cho nhiều cô gái khác qua mạng lần lượt bị phát hiện.

Sau cùng, trong cuộc họp báo tại New York Weiner đã thú nhận "trước đây tôi đã nói dối, từ trước đến giờ những hình ảnh sexy là do tôi tự gởi đi" ông cũng xin lỗi các blogger vì trước đây đã mắng chửi họ là bọn nói xạo, khi họ tiết lộ những bê bối của ông!

Sau vụ này, ông xin từ chức dân biểu, bị vợ ly dị, hí hí

42,

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

Hallelujah

Hallelujah, lời ca chúc tụng hay rên rỉ?

Nhạc phẩm Hallelujah cuả Leonard Cohen gồm 2 phần, phần đầu tác giả dùng những điển tích trong cựu ước, dẫn nhập chúng ta đến với từ Hallelujah. Phần 2, mô tả về những rên rỉ thăng hoa, cả ấm ức với đổ vỡ, trải nghiệm của một người đã đi qua những thăng trầm trong tình yêu. Có rất nhiều giải thích và biến tấu của lời hát, sau đây là những cóp nhặt riêng, chỉ phần nào về nhạc phẩm này.


Trước tiên, hãy nhẩm lại chút kiến thức Thiên Chúa Giáo,
-David, vị vua Do thái trong cựu ước, được nhắc đến trong nhạc phẩm này ám chỉ đến mặc cảm tội lỗi trong tình yêu. Trong một lần thấy Bathsheba tắm trên sân thượng, ông mê nàng. Ông đã vì yêu, chiếm lĩnh Bathsheba, mà tìm cách đẩy Uriah chồng nàng ra chiến tuyến để y bị giết chết, sau đã cưới nàng dưới bao lời trách móc.
-Samson và Delilah, ám thị của sự lừa dối, mụ mị trong tình yêu, Samson một lãnh tụ Do thái đã bị nàng Delilah dùng sắc đẹp, lời ngon ngọt lừa chàng mê mẩn trong mối tình này, nói ra bí mật sức mạnh và bị nàng lừa cắt trọc đầu mất đi mái tóc-cũng là sức mạnh của mình, để dẫn đến cái chết mù loà trong xiềng xích, câu chuyện bi thương này cũng trong cựu ước.
-Chim bồ câu bay lượn, được dùng cách ám thị trong kinh thánh để chỉ về các thiên sứ, khi xuất hiện luôn mang đến bình an và hoan lạc cho thế nhân, ở đây là dấu chỉ về sự thăng hoa của tình yêu, sự thánh thiện, hoàn hảo của tình yêu.

Hallelujah, nghĩa là "vinh danh thiên chúa" nhưng trong nhạc phẩm Hallelujah không mang nghĩa này, đây có thể hiểu là những tiếng rên rỉ sung sướng lên đỉnh khi làm tình, cùng trong bài này, tác giả sử dụng "broken Hallelujah" như lời than vãn, ray rứt của cuộc tình không trọn vẹn, tội lỗi, dối lừa! Hallelujah lúc này chỉ là những nức nở nghẹn ngào, không còn là tiếng hoan ca tình yêu nữa.

Verse 1:
Now I've heard there was a secret chord
That David played and it pleased the Lord
But you don't really care for music, do you?
It goes like this
The fourth, the fifth, the minor fall, the major lift
The baffled king composing Hallelujah...

Bạn có thể nghe về một hội đồng ca nào đó
Gồm cả David, dâng lên hài lòng Thiên chúa
Nhưng chắc là bạn chẳng quan tâm đến âm nhạc, nhỉ?
Chuyện như vầy,
Những đoạn 4, đoạn 5, hợp âm giáng, hợp âm thăng...
Có ông vua bối rối sáng tác điệu Hallelujah

Sơ tả vua David, với những công trạng làm vui lòng thượng đế, tác giả dẫn chuyện đưa chúng ta đến với vị vua Do thái, với nhóm thờ phụng, người đã sáng tác ra lời hoan ca ngợi ca Thiên Chúa Hallelujah

Verse 2:
Your faith was strong but you needed proof
You saw her bathing on the roof
Her beauty and the moonlight overthrew you
She tied you to a kitchen chair
She broke your throne, and she cut your hair
And from your lips she drew the Hallelujah...

Niềm tin của ta vững chắc nhưng ta cần minh chứng
Nhưng, ta chỉ một lần thấy nàng tắm trên sân thượng
Sắc đẹp nàng cùng ánh trăng đã quật ngã ta.
Nàng cột ta vào chiếc ghế ở bàn ăn
Bẻ gẫy vương miện, cạo đầu ta
Và môi trong môi ta, nàng gào lên Hallelujah

Ba câu đầu này, dẫn ta vào sâu hơn mô tả cú sét ái tình của David, Với Thượng đế ông phải chứng minh về lòng tin cùng ngài, nhưng khi nhìn thấy tình yêu của mình lần đầu tắm trần truồng trên sân thượng dưới ánh trăng, sắc đẹp cộng với ánh trăng ma mị đã xô ngã người anh hùng của cựu ước chìm vào tội lỗi. Hallelujah ở đây là tiếng rên nhục dục chìm trong tình yêu, hoan lạc tội lỗi Hallelujah.
Nửa sau là ẩn dụ về sự dại dột ngây thơ của Samson, khi một đầu lĩnh Do thái sa vào lưới tình, người tình đã phản bội, trong khi cắt mất tóc-sức mạnh của chàng ta, nàng vẫn môi trong môi và rên rỉ lên đỉnh cùng người tình chắc chắn sẽ chết trong tay nàng! Hallelujah với Delilah là tiếng gào sung sướng trong tình yêu dối lừa.

Hallelujah trong đoạn này là định nghĩa của sự tội lỗi, tan vỡ, tuyệt vọng trong tình yêu, gồm có cả bóng dáng của vui mừng, hoan lạc. The 'black' Hallelujah.

Verse 3:
Now maybe there's a God of love
As for me all I ever learned from love
Is how to shoot someone who outdrew you
But it's not a crime that you're here tonight
It's not some Pilgrim who claims to have seen the light, no
It's a cold and it's a very broken Hallelujah...

Có thật chăng một vị thần tình yêu
Sao những gì anh học được ở cuộc tình này
Là chiến đấu với người để giành giựt em
Nhưng đêm nay sao em trốn chạy
Có chăng ai đó thấy ánh hào quang mà ca hát,
Không, chỉ là những đơn côi cùng với đắng cay Hallelujah

Bắt đầu từ đây, tác giả viết về cuộc tình của riêng "mình", sau khi định nghĩa Hallelujah theo cựu ước, giờ là Những trải nghiệm trong đời thường, có thật tồn tại một thần tình yêu? Sao ta phải giành giật mới được em? và kết cục em cũng bỏ ta, chỉ còn lại là lạnh lẽo cô đơn tăm tối, lúc này ta cũng thấy Hallelujah-không là hoan ca-mà là một broken Hallelujah, đẫm đắng cay. Hallelujah ở đây là những tức tưởi cay đắng cho cuộc tình vừa mất!

"It's not some Pilgrim who claims to have seen the light" là ẩn dụ về đêm Giáng sinh, khi Chúa Hài đồng sinh ra, thiên thần hoan ca Hallelujah.

Verse 4:
Oh people I have been here before
I know this room and I've walked this floor
You see, I used to live alone before I knew you
And I've seen your flag on the marble arch
But listen, Love Love is not a victory march, no
It's a cold and it's a broken Hallelujah...

Người ơi, ta đã từng ở đây nhé
Ta biết căn phòng này, ta đã từng đếm bước nơi đây
Em biết không, ta đã từng sống cô đơn trước khi biết em
Ta đã chinh phục em và chiếm đoạt
Nhưng, yêu em không là cuộc diễn hành chiến thắng,
Không, mà chỉ là những cay đắng, đơn côi Hallelujah

Lời nói thầm cùng với người tình đã rời xa, cuộc tình với em, những chinh phục-chiếm đoạt-chiến thắng-mất mát, giờ chỉ còn lại những đơn côi cay đắng Hallelujah

"the flag on the marble arch" là ẩn dụ cho chiến thắng, tịch thu cờ địch vất xuống nền đền thờ.

Verse 5:
There was a time you let me know
What's really going on below
But now you never even show it to me, do you?
I remember when I moved in you
And the holy dove she was moving too
And every single breath we drew was Hallelujah...

Đã có thời em luôn thủ thỉ
Những tâm sự từ sâu trong đáy lòng em
Nhưng sao nay em câm nín, em ơi?
Anh vẫn nhớ những cơn hoan giao hoang hoải
Cánh thiên thần hạnh phúc chao nghiêng
Từng hơi thở dốc, ta cùng gào rú Hallelujah

Những nhung nhớ về người yêu, còn đâu những khi luôn ríu rít tâm sự những điều sâu kín trong lòng, sao giờ này em câm nín coi anh như người lạ? Em còn nhớ những cơn giao hoan chúng mình cùng gào lên hoan lạc, thánh thiện biết bao, hạnh phúc tràn đầy Hallelujah.

Verse 6:
I've done my best, I know it wasn't much
I couldn't feel so I learned to touch
I've told the truth, I didn't come here just to fool you
And even though it all went wrong
I'll stand right here before the Lord of Song
With nothing, nothing on my tongue but Hallelujah...

Anh đã cố hết sức, dẫu biết rằng em đổi dạ
Thử mọi cách làm thay đổi lòng em
Thật, anh đến gặp em lòng không gian dối
Em ơi cho dù tình ta tan vỡ
Trước mặt thượng đế toàn năng
Dù trống vắng đơn côi, anh vẫn rên lên Hallelujah

Anh đã cố hết sức nhưng vẫn không giữ được em, anh đến đây không tìm cách dối lừa chỉ muốn em biết rằng, trước Thượng đế trên cao dù lòng anh trống vắng, anh vẫn cứ ca lên Hallelujah để nhớ mãi về cuộc tình em đã trao tặng!

42, Hí hí
   

Cho em quên tuổi ngọc.


Cho em quên tuổi ngọc, lời thú tội muộn màng của những trí thức ảo tưởng thời VNCH

Thưởng thức nhạc phẩm ''Cho em quên tuổi ngọc'' chắc không mấy ai hiểu những tâm sự gói ghém trong bài hát mà nhạc sỹ Lam Phương đã viết, xin viết ra đây lời tâm sự ẩn sau bài hát, do chính nhạc sỹ đã tự bạch.

Bài hát là một lời tâm sự, những ân hận cuả một lớp trí thức điển hình thời VNCH (dùng ngôn ngữ âm nhạc, ''nàng'' trong bài hát là đại diện cho những trí thức cả tin thời đó), ngây thơ tin vào những ảo mộng cộng sản, bằng mọi cách lung lạc xã hội Sàigòn thời chiến, tìm mọi khả năng nhằm lật đổ nền dân chủ mới chớm trên miền Nam, sau 'giải phóng' nhận ra sự thật quá trễ. Một số khi ra được nước ngoài nàng đã thổn thức những tâm sự, những ăn năn muộn màng của mình, những sai lầm đã không thể sửa chữa, nhạc sỹ Lam Phương đã diễn đạt lại từng góc khuất, đơn côi, đớn đau của nàng.

Cho em quên cơn mộng ảo xa xôi thơ ngây ngày nào
Em quên được phút trong tay mưa bay dạt dào
Ðến muôn đời sau em không còn nhớ yêu thương bên nhau lần đầu

Phần mở đầu với lời xin lỗi về những ảo mộng mà thế hệ của các 'nàng' đã gây ra cho miền Nam, những lỗi lầm đã không có thể sửa chữa được, những ân hận sẽ theo nàng đến mãi sau, muôn đời, đã quá trễ cho những khổ đau chụp xuống quê hương.

Cho em trao một lời cuối ăn năn quê hương tội tình
Em xin được khóc cô đơn ôi thân phận mình
Thế gian còn ai? 

Em xin từ giã thơ ngây xuôi theo dòng đời.

Nay lang thang xứ người, cô đơn thân phận biết có ai hiểu cho những ngây thơ thời trẻ dại? Ai đây sẽ chấp nhận những lời ăn năn, những lỗi lầm gây ra trong thời trẻ của nàng?

Hơi men nào cũng chẳng đủ say
Thêm cho đầy giấc mộng chua cay
Có nhớ phút giây lầm lỡ
Uống cho thật say
Uống quên ngày mai
Thế gian đổi thay
Quanh ta có ai
Ðời còn chi trong tay

Những lầm lỡ này-một kiểu cách điệu-nàng chỉ nhờ men rượu giảm bớt đi những ân hận trong lòng, uống cho quên đời, quên đi những lầm lỡ đã gây ra cho quê hương, chỉ không cơn say nào tồn tại đủ lâu để quên đi, biết bao ước mơ giờ đều tan theo ảo mộng, quê hương giờ còn gì?

Mai đây khi hoa tàn úa xanh xao phong ba dập vùi
Em xin nằm xuống mang theo con tim ngậm ngùi
Giấc mơ nhỏ nhoi đưa em vào cõi thiên thu yêu thương đời đời ...
        

Ngày nào, khi tuổi xuân tàn, xuôi tay nằm xuống ''nàng'' chỉ xin được mang theo con tim đau khổ đầy ân hận này vào cõi vĩnh hằng, xin hãy tha thứ để nàng mãi mãi giữ những yêu thương... nơi thiên đường vĩnh viễn.

42,       

Ask not what your country can do for you!

Tổ quốc bạc đãi, trường hợp Hazel Ying Lee.

Hazel Ying Lee đã được nhận bằng Pilot ngay trong năm đầu tiên mà cô được ngồi vào buồng lái. Cô đam mê bay lượn, hơn một thập kỷ sau đó, cô đã chết trong khi làm công việc cô yêu thích. Là nữ phi công Mỹ gốc Trung Hoa đầu tiên bay cho quân đội, cô đã hy sinh trên đường giao một chiếc máy bay chiến đấu từ New York đến Montana trong Thế chiến II.

Lee sinh tại Portland, Oregon 1912, sau khi tốt nghiệp trung học, cô đã làm một nhân viên thang máy tại một cửa hàng bách hóa trung tâm thành phố, một trong những công việc chỉ dành cho cô gái gốc Hoa. Nhưng cô cũng tham gia câu lạc bộ bay Trung Hoa của Portland, thời điểm này chỉ có ít hơn một phần trăm phi công ở Mỹ là phụ nữ, theo đuổi đam mê cô dành dụm tiền và bắt đầu học bay.

1933, với bằng bay trong tay, Khi Nhật tấn công Mãn châu, Lee hưởng ứng phong trào chống Nhật, cùng với nhiều kiều bào khác đi Trung Hoa, cô đăng ký vào không quân chiến đấu chống Nhật Bản. Mặc dù nhu cầu rất cần phi công, cô đã bị từ chối, cô sống ở Canton và bay cho một hãng hàng không tư nhân. Nỗ lực xin vào không quân Trung Hoa vẫn bị từ chối ngay cả khi Nhật Bản xâm chiếm bốn năm sau. Cô trốn sang Hồng Kông, trở về Hoa Kỳ và cuối cùng trở thành phi công cho quân đội Mỹ sau vụ Nhật tấn công Trân Châu Cảng.

WASP-Đội nữ phi công hỗ trợ, là một nhóm các nữ phi công tình nguyện phục vụ trong Không lực Mỹ, vì thời chiến những nam phi công chiến đấu cần cho mặt trận, nên nữ được tuyển chọn để giao máy bay từ các nhà máy sản xuất, những người nữ phi công bay những chiếc máy bay mới đến căn cứ huấn luyện, đến bến cảng để vận chuyển ra nước ngoài hoặc đến các điểm trung chuyển khác.

Lee đã được tuyển và đào tạo lái chiến đấu cơ tại Avenger Field ở Sweetwater, và đó là dịp mà cô đã kịp ghi vào lịch sử WASP: "Một lần trong thời gian đào tạo, do máy bay trục trặc Lee đã buộc phải hạ cánh khẩn cấp trên một nông trại, người nông dân lầm cô là phi công Nhật Bản lái máy bay xâm lăng Mỹ, đã dùng chiếc đinh ba rượt cô chạy lòng vòng chung quanh chiếc máy bay cho đến khi cô giải thích được mình là phi công Mỹ"

Tốt nghiệp, Lee gia nhập phi đội vận chuyển tại căn cứ không quân Romulus, Michigan. Cô là một trong khoảng 130 nữ có khả năng lái chiến đấu cơ tốc độ cao, trong đó gồm P-47, P-51 Mustang và P-63 Kingcobra.

1932

"Đối với phụ nữ để hầu như hàng ngày lái một máy bay với tốc độ gần 400 MPH xuyên khắp đất nước phải là người rất lãng mạn, khi ta biết rằng hầu hết phụ nữ và ngay cả đàn ông thời đó -thập niên 40- chưa bao giờ được ra khỏi tiểu bang, thậm chí có thể chưa từng ra khỏi làng.

Các cô gái trẻ, bị quyến rũ vì sự hấp dẫn khi là phi công bay lượn trên bầu trời, nhưng đây là công việc nguy hiểm, họ bay những chiếc máy bay trực tiếp từ dây chuyền lắp ráp, thường họ là người phát hiện quá trễ những lỗi lắp ráp trong khi bay giao hàng. Trong số 1.102 nữ phi công tham gia vào chương trình, 38 người đã chết và Lee là người cuối cùng tử nạn.

Tháng 11 năm 1944, Lee nhận nhiệm vụ bay chiếc P-63 từ nhà máy của Bell Aircraft tại Niagara Falls, New York. Vào khoảng 14:00 giờ, đến phi trường Great Falls, Montana cô nhận được lệnh hạ cánh, cùng bay trong nhóm nhiều máy bay nên đã xảy ra tình trạng lộn xộn, máy bay của cô đã đụng vào một chiếc P-63 khác trên đường băng hạ cánh và cháy. Cứu hỏa kéo cô ra khỏi chiếc máy bay cháy vụn, bộ đồ bay cháy xém khét lẹt, cô mất 2 ngày sau trong nhà thương.

Chưa hết, ngay sau đó gia đình cô cũng đồng thời nhận tin anh trai cô, Victor, đã tử trận ở Pháp, nơi anh ta chiến đấu trong kỵ binh Hoa Kỳ.

Nhưng khi gia đình chuẩn bị để chôn hai anh em trong một nghĩa trang ở Portland, Oregon. Những người quản trang cho là người châu Á không được phép chôn trong khu người da trắng. Nghĩa trang chỉ đồng ý cho chôn sau một trận tranh đấu dữ dội.

Mặc dù các nữ phi công đã bay dưới sự chỉ huy quân sự, những người này vẫn bị coi là thường dân và không nhận được bất cứ đãi ngộ nào từ quân đội. Họ thậm chí phải tự trả tiền phòng trọ, tự mua đồng phục bay. Jean Harman một cựu phi công nhớ lại, những nữ phi công đã phải quyên góp tiền để lo hậu sự khi một trong những bạn cùng phòng của họ bị tử nạn. "Chính phủ thậm chí không trả tiền cho đám tang của chúng tôi," cô kể "Chúng tôi đã phải góp tiền để chở xác đồng đội về quê nhà họ" Nhưng Harman cũng nhấn mạnh về tình yêu với bầu trời "Đó là một đam mê" cô nói. "Và ai nói rằng làm phi công vì yêu nước chỉ là thêm mắm dặm muối"

Hơn 30 năm sau, những nữ phi công trong WASP cũng được thừa nhận công lao, khi Hạ viện và Thượng viện đã bỏ phiếu chấp nhận cho họ đủ điều kiện hưởng quyền lợi cựu chiến binh.

King Cobra 
Tổng hợp 42.
(http://www.cbsnews.com/news/first-chinese-american-woman-to-fly-for-military-died-in-fiery-crash/)

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016

Bésame mucho

"Bésame Mucho"
Bésame, bésame mucho,
Como si fuera esta noche la última vez
Bésame, bésame mucho,
Que tengo miedo a perderte, perderte otra vez [2]

Quiero tenerte muy cerca,
Mirarme en tus ojos, verte junto a mí
Piensa que tal vez mañana
Yo ya estaré lejos, muy lejos de ti

Bésame, bésame mucho,
Como si fuera esta noche la última vez
Bésame, bésame mucho,
Que tengo miedo a perderte, perderte después
Que tengo miedo a perderte, perderte otra vez



"Em sợ có ngày ta mất nhau, em sợ mất anh lần nữa"

 "Que tengo miedo a perderte, perderte después
Que tengo miedo a perderte, perderte otra vez "

"Mình hôn nhau, Anh"

Hôn em, hôn em nữa đi anh
Hãy như lần cuối ta hẹn nhau
Hôn em, hôn em nhiều đi anh
Em sợ có ngày ta mất nhau!

Em chỉ mong cảm giác anh kề cận,
Thấy bóng em trong mắt anh,
Sợ rồi mai kia,
Có thể em xa anh mãi mãi!

Hôn em, hôn em nữa đi anh
Hãy như lần cuối ta hẹn nhau
Hôn em, hôn em nhiều đi anh
Em sợ có ngày ta mất nhau!
Em sợ mất anh, thêm lần nữa.



Thứ Tư, 22 tháng 6, 2016

RIMPAC 2016

RIMPAC, Chương trình tập trận vòng đai Thái bình dương.

Theo lịch trình, cứ mỗi 2 năm một lần RIMPAC được tổ chức, tham dự lần này gồm có 27quốc gia, 45 tàu chiến, 5 tàu ngầm, hơn 200 máy bay 25.000 người sẽ tham gia từ ngày 30/06 cho đến 04/08 xung quanh quần đảo Hawaii miền Nam California.

Là cương trình tập trận lớn nhất thế giới, RIMPAC cung cấp cơ hội duy nhất đào tạo đồng thời giúp những nước tham gia nuôi dưỡng duy trì mối quan hệ hợp tác rất quan trọng để đảm bảo sự an toàn của các tuyến đường biển an ninh trên thế giới. RIMPAC 2016 là lần tập trận thứ 25 bắt đầu từ năm 1971.

Chủ đề của RIMPAC 2016 "Khả năng, thích ứng, hợp tác" Các quốc gia tham dự các lực lượng sẽ thực hiện một loạt các khả năng thể hiện sự linh hoạt vốn có của lực lượng hàng hải. Phạm vi từ cứu trợ thiên tai các hoạt động kiểm soát an ninh hàng hải và chiến đấu phức tạp. Chương trình đào tạo liên quan thực tế bao gồm các chiến dịch đổ bộ pháo binh, tên lửa, bài tập phòng thủ chống tàu ngầm máy bay, hoạt động chống xâm nhập, hoạt động rà phá bom mìn, tiêu hủy bom mìn, hoạt động lặn biển cứu hộ biển.


Tập trận năm nay bao gồm các lực lượng từ 27 nước: Úc, Brazil, Brunei, Canada, Chile, Colombia, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ấn Độ, Indonesia,, Nhật bản, Malaysia, Mexico, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, Peru, Hàn Quốc, Philippines, Singapore, Thái Lan, Tonga, Vương Quốc Anh Hoa Kỳ.

Đây lần đầu tiên Brasil, Đan Mạch, Đức và Ý đang tham gia vào RIMPAC. Đặc biệt đầu tiên sẽ bao gồm màn thực tập chỉ huy điều khiển các tình huống trên biển khác nhau kết hợp với một chiến dịch giải cứu tàu ngầm. Năm nay sẽ thực tập các hoạt động đổ bộ tại miền Nam California, biểu diễn bắn tên lửa đời mới từ tàu chiến và trình diễn các tính năng nổi bật mới nhất của hạm đội đổ bộ của Hải quân Hoa Kỳ

"Hạm đội xanh" nổi tiếng thế giới cuả Hải quân Mỹ sẽ đóng vai quan trọng ở RIMPAC, cũng là dịp trình diễn sáng kiến nổi bật toàn cầu bằng cách sử dụng các biện pháp tiết kiệm năng lượng hỗn hợp nhiên liệu thay thế để chứng minh làm thế nàotối ưu hóa năng lượng sử dụng nhằm tăng khả năng phục hồi sẵn sàng hoạt động. Trong thời gian tập trận, tất cả các đơn vị tham gia hoạt động sẽ được cho thử xử dụng nhiên liệu pha trộn thay thế.

RIMPAC 2016 sẽ được chỉ huy bởi Phó đô đốc Nora Tyson, chỉ huy trưởng hạm đội 3 (C3F), hạm đội Thái bình Dương, sẽ tư lệnh lực lượng đặc nhiệm kết hợp (CTF). Chuẩn đô đốc Scott Bishop cuả Hải quân Canada sẽ phục vụ như phó tư lệnh của CTF Chuẩn đô đốc Koji Manabe thuộc hải quân Nhật bản phó chỉ huy. Các lãnh đạo chủ chốt của lực lượng đa quốc gia sẽ bao gồm Thiếu tướng Malcolm Wise của Hải quân Hoàng gia Úc, Chuẩn tướng Blaise Frawley của Không quân Hoàng gia Canada sẽ chỉ huy các đơn vi máy bay lực lượng đặc nhiệm đổ bộ sẽ được lãnh đạo bởi Phó đề đốc Hải quân Hoàng gia New Zealand, James Gilmour.

Hí hí, 42 chuyển ngữ.
(http://www.navy.mil/submit/display.asp?story_id=94978#.V1BV_UEXx-o.facebook)