Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

Anthony Weiner,

Các cụ có câu "Sướng con cu, mù con mắt" nhưng có những trường hợp chẳng sướng gì vẫn bị mù như thường.

Mấy ngày qua, xôn xao vụ FBI mở lại hồ sơ điều tra về Email của VS Hillary, vì từ vụ điều tra tai tiếng về sex của Anthony Weiner FBI đã tìm thấy những dính líu qua lại liên quan đến hồ sơ Email trước đây của Hillary (bé Hì)


Weiner làm gì nên tội, hí hí???
Anthony Weiner, là chồng của Huma Abedin cánh tay mặt của bé Hì trong cuộc tranh cử tổng thống hiện nay. Anthony Weiner là cựu dân biểu của New York từ 01/1999 cho đến ngày từ chức 06/2011, là thành viên đảng dân chủ, được trúng cử với gần 59% phiếu bầu, vinh quang chói lọi cho đến một ngày...

Đó là ngày 27/05/2011, khi Weiner chụp hình mình mặc chiếc quần lót boxing (kiểu quần đùi bằng thun) nổi rõ mồn một trong đó là chú chim đang cương cứng hết cỡ, hí hí sau đó gởi tấm hình cho một nữ sinh viên 20 tuổi, người vẫn follow tài khoản twitter của Weiner. Ngay hôm sau một blogger tên Andrew Breitbart đã chụp màn hình, công bố hình ảnh trên khắp nơi. May mắn thay, lần đó Weiner đã nhanh trí đổ vấy cho tài khoản bị hack, người nào đó định bôi xấu hình ảnh của ông ta.


Hai tháng sau, một cô bé 17 tuổi tại Delaware hào hứng tweet trên mạng "thiệt không thể tin nổi, mình đang tâm tình với Dân biểu Weiner" Cảnh sát nhận được tin báo đã tìm đến cô bé và tìm hiểu coi có bất cứ lời nói, tin nhắn dâm đãng nào đã gởi tới cô không? Weiner sau này đã xác nhận có tiếp xúc qua mạng với cô bé nhưng không có bất cứ hành vi, lời nói nào quá đáng cả.

Rồi ngày 06/06/2011 một bức hình cởi trần của Weiner, tiếp theo sau nhiều tấm hình sexy cuả Weiner gởi cho nhiều cô gái khác qua mạng lần lượt bị phát hiện.

Sau cùng, trong cuộc họp báo tại New York Weiner đã thú nhận "trước đây tôi đã nói dối, từ trước đến giờ những hình ảnh sexy là do tôi tự gởi đi" ông cũng xin lỗi các blogger vì trước đây đã mắng chửi họ là bọn nói xạo, khi họ tiết lộ những bê bối của ông!

Sau vụ này, ông xin từ chức dân biểu, bị vợ ly dị, hí hí

42,

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

Hallelujah

Hallelujah, lời ca chúc tụng hay rên rỉ?

Nhạc phẩm Hallelujah cuả Leonard Cohen gồm 2 phần, phần đầu tác giả dùng những điển tích trong cựu ước, dẫn nhập chúng ta đến với từ Hallelujah. Phần 2, mô tả về những rên rỉ thăng hoa, cả ấm ức với đổ vỡ, trải nghiệm của một người đã đi qua những thăng trầm trong tình yêu. Có rất nhiều giải thích và biến tấu của lời hát, sau đây là những cóp nhặt riêng, chỉ phần nào về nhạc phẩm này.


Trước tiên, hãy nhẩm lại chút kiến thức Thiên Chúa Giáo,
-David, vị vua Do thái trong cựu ước, được nhắc đến trong nhạc phẩm này ám chỉ đến mặc cảm tội lỗi trong tình yêu. Trong một lần thấy Bathsheba tắm trên sân thượng, ông mê nàng. Ông đã vì yêu, chiếm lĩnh Bathsheba, mà tìm cách đẩy Uriah chồng nàng ra chiến tuyến để y bị giết chết, sau đã cưới nàng dưới bao lời trách móc.
-Samson và Delilah, ám thị của sự lừa dối, mụ mị trong tình yêu, Samson một lãnh tụ Do thái đã bị nàng Delilah dùng sắc đẹp, lời ngon ngọt lừa chàng mê mẩn trong mối tình này, nói ra bí mật sức mạnh và bị nàng lừa cắt trọc đầu mất đi mái tóc-cũng là sức mạnh của mình, để dẫn đến cái chết mù loà trong xiềng xích, câu chuyện bi thương này cũng trong cựu ước.
-Chim bồ câu bay lượn, được dùng cách ám thị trong kinh thánh để chỉ về các thiên sứ, khi xuất hiện luôn mang đến bình an và hoan lạc cho thế nhân, ở đây là dấu chỉ về sự thăng hoa của tình yêu, sự thánh thiện, hoàn hảo của tình yêu.

Hallelujah, nghĩa là "vinh danh thiên chúa" nhưng trong nhạc phẩm Hallelujah không mang nghĩa này, đây có thể hiểu là những tiếng rên rỉ sung sướng lên đỉnh khi làm tình, cùng trong bài này, tác giả sử dụng "broken Hallelujah" như lời than vãn, ray rứt của cuộc tình không trọn vẹn, tội lỗi, dối lừa! Hallelujah lúc này chỉ là những nức nở nghẹn ngào, không còn là tiếng hoan ca tình yêu nữa.

Verse 1:
Now I've heard there was a secret chord
That David played and it pleased the Lord
But you don't really care for music, do you?
It goes like this
The fourth, the fifth, the minor fall, the major lift
The baffled king composing Hallelujah...

Bạn có thể nghe về một hội đồng ca nào đó
Gồm cả David, dâng lên hài lòng Thiên chúa
Nhưng chắc là bạn chẳng quan tâm đến âm nhạc, nhỉ?
Chuyện như vầy,
Những đoạn 4, đoạn 5, hợp âm giáng, hợp âm thăng...
Có ông vua bối rối sáng tác điệu Hallelujah

Sơ tả vua David, với những công trạng làm vui lòng thượng đế, tác giả dẫn chuyện đưa chúng ta đến với vị vua Do thái, với nhóm thờ phụng, người đã sáng tác ra lời hoan ca ngợi ca Thiên Chúa Hallelujah

Verse 2:
Your faith was strong but you needed proof
You saw her bathing on the roof
Her beauty and the moonlight overthrew you
She tied you to a kitchen chair
She broke your throne, and she cut your hair
And from your lips she drew the Hallelujah...

Niềm tin của ta vững chắc nhưng ta cần minh chứng
Nhưng, ta chỉ một lần thấy nàng tắm trên sân thượng
Sắc đẹp nàng cùng ánh trăng đã quật ngã ta.
Nàng cột ta vào chiếc ghế ở bàn ăn
Bẻ gẫy vương miện, cạo đầu ta
Và môi trong môi ta, nàng gào lên Hallelujah

Ba câu đầu này, dẫn ta vào sâu hơn mô tả cú sét ái tình của David, Với Thượng đế ông phải chứng minh về lòng tin cùng ngài, nhưng khi nhìn thấy tình yêu của mình lần đầu tắm trần truồng trên sân thượng dưới ánh trăng, sắc đẹp cộng với ánh trăng ma mị đã xô ngã người anh hùng của cựu ước chìm vào tội lỗi. Hallelujah ở đây là tiếng rên nhục dục chìm trong tình yêu, hoan lạc tội lỗi Hallelujah.
Nửa sau là ẩn dụ về sự dại dột ngây thơ của Samson, khi một đầu lĩnh Do thái sa vào lưới tình, người tình đã phản bội, trong khi cắt mất tóc-sức mạnh của chàng ta, nàng vẫn môi trong môi và rên rỉ lên đỉnh cùng người tình chắc chắn sẽ chết trong tay nàng! Hallelujah với Delilah là tiếng gào sung sướng trong tình yêu dối lừa.

Hallelujah trong đoạn này là định nghĩa của sự tội lỗi, tan vỡ, tuyệt vọng trong tình yêu, gồm có cả bóng dáng của vui mừng, hoan lạc. The 'black' Hallelujah.

Verse 3:
Now maybe there's a God of love
As for me all I ever learned from love
Is how to shoot someone who outdrew you
But it's not a crime that you're here tonight
It's not some Pilgrim who claims to have seen the light, no
It's a cold and it's a very broken Hallelujah...

Có thật chăng một vị thần tình yêu
Sao những gì anh học được ở cuộc tình này
Là chiến đấu với người để giành giựt em
Nhưng đêm nay sao em trốn chạy
Có chăng ai đó thấy ánh hào quang mà ca hát,
Không, chỉ là những đơn côi cùng với đắng cay Hallelujah

Bắt đầu từ đây, tác giả viết về cuộc tình của riêng "mình", sau khi định nghĩa Hallelujah theo cựu ước, giờ là Những trải nghiệm trong đời thường, có thật tồn tại một thần tình yêu? Sao ta phải giành giật mới được em? và kết cục em cũng bỏ ta, chỉ còn lại là lạnh lẽo cô đơn tăm tối, lúc này ta cũng thấy Hallelujah-không là hoan ca-mà là một broken Hallelujah, đẫm đắng cay. Hallelujah ở đây là những tức tưởi cay đắng cho cuộc tình vừa mất!

"It's not some Pilgrim who claims to have seen the light" là ẩn dụ về đêm Giáng sinh, khi Chúa Hài đồng sinh ra, thiên thần hoan ca Hallelujah.

Verse 4:
Oh people I have been here before
I know this room and I've walked this floor
You see, I used to live alone before I knew you
And I've seen your flag on the marble arch
But listen, Love Love is not a victory march, no
It's a cold and it's a broken Hallelujah...

Người ơi, ta đã từng ở đây nhé
Ta biết căn phòng này, ta đã từng đếm bước nơi đây
Em biết không, ta đã từng sống cô đơn trước khi biết em
Ta đã chinh phục em và chiếm đoạt
Nhưng, yêu em không là cuộc diễn hành chiến thắng,
Không, mà chỉ là những cay đắng, đơn côi Hallelujah

Lời nói thầm cùng với người tình đã rời xa, cuộc tình với em, những chinh phục-chiếm đoạt-chiến thắng-mất mát, giờ chỉ còn lại những đơn côi cay đắng Hallelujah

"the flag on the marble arch" là ẩn dụ cho chiến thắng, tịch thu cờ địch vất xuống nền đền thờ.

Verse 5:
There was a time you let me know
What's really going on below
But now you never even show it to me, do you?
I remember when I moved in you
And the holy dove she was moving too
And every single breath we drew was Hallelujah...

Đã có thời em luôn thủ thỉ
Những tâm sự từ sâu trong đáy lòng em
Nhưng sao nay em câm nín, em ơi?
Anh vẫn nhớ những cơn hoan giao hoang hoải
Cánh thiên thần hạnh phúc chao nghiêng
Từng hơi thở dốc, ta cùng gào rú Hallelujah

Những nhung nhớ về người yêu, còn đâu những khi luôn ríu rít tâm sự những điều sâu kín trong lòng, sao giờ này em câm nín coi anh như người lạ? Em còn nhớ những cơn giao hoan chúng mình cùng gào lên hoan lạc, thánh thiện biết bao, hạnh phúc tràn đầy Hallelujah.

Verse 6:
I've done my best, I know it wasn't much
I couldn't feel so I learned to touch
I've told the truth, I didn't come here just to fool you
And even though it all went wrong
I'll stand right here before the Lord of Song
With nothing, nothing on my tongue but Hallelujah...

Anh đã cố hết sức, dẫu biết rằng em đổi dạ
Thử mọi cách làm thay đổi lòng em
Thật, anh đến gặp em lòng không gian dối
Em ơi cho dù tình ta tan vỡ
Trước mặt thượng đế toàn năng
Dù trống vắng đơn côi, anh vẫn rên lên Hallelujah

Anh đã cố hết sức nhưng vẫn không giữ được em, anh đến đây không tìm cách dối lừa chỉ muốn em biết rằng, trước Thượng đế trên cao dù lòng anh trống vắng, anh vẫn cứ ca lên Hallelujah để nhớ mãi về cuộc tình em đã trao tặng!

42, Hí hí
   

Cho em quên tuổi ngọc.


Cho em quên tuổi ngọc, lời thú tội muộn màng của những trí thức ảo tưởng thời VNCH

Thưởng thức nhạc phẩm ''Cho em quên tuổi ngọc'' chắc không mấy ai hiểu những tâm sự gói ghém trong bài hát mà nhạc sỹ Lam Phương đã viết, xin viết ra đây lời tâm sự ẩn sau bài hát, do chính nhạc sỹ đã tự bạch.

Bài hát là một lời tâm sự, những ân hận cuả một lớp trí thức điển hình thời VNCH (dùng ngôn ngữ âm nhạc, ''nàng'' trong bài hát là đại diện cho những trí thức cả tin thời đó), ngây thơ tin vào những ảo mộng cộng sản, bằng mọi cách lung lạc xã hội Sàigòn thời chiến, tìm mọi khả năng nhằm lật đổ nền dân chủ mới chớm trên miền Nam, sau 'giải phóng' nhận ra sự thật quá trễ. Một số khi ra được nước ngoài nàng đã thổn thức những tâm sự, những ăn năn muộn màng của mình, những sai lầm đã không thể sửa chữa, nhạc sỹ Lam Phương đã diễn đạt lại từng góc khuất, đơn côi, đớn đau của nàng.

Cho em quên cơn mộng ảo xa xôi thơ ngây ngày nào
Em quên được phút trong tay mưa bay dạt dào
Ðến muôn đời sau em không còn nhớ yêu thương bên nhau lần đầu

Phần mở đầu với lời xin lỗi về những ảo mộng mà thế hệ của các 'nàng' đã gây ra cho miền Nam, những lỗi lầm đã không có thể sửa chữa được, những ân hận sẽ theo nàng đến mãi sau, muôn đời, đã quá trễ cho những khổ đau chụp xuống quê hương.

Cho em trao một lời cuối ăn năn quê hương tội tình
Em xin được khóc cô đơn ôi thân phận mình
Thế gian còn ai? 

Em xin từ giã thơ ngây xuôi theo dòng đời.

Nay lang thang xứ người, cô đơn thân phận biết có ai hiểu cho những ngây thơ thời trẻ dại? Ai đây sẽ chấp nhận những lời ăn năn, những lỗi lầm gây ra trong thời trẻ của nàng?

Hơi men nào cũng chẳng đủ say
Thêm cho đầy giấc mộng chua cay
Có nhớ phút giây lầm lỡ
Uống cho thật say
Uống quên ngày mai
Thế gian đổi thay
Quanh ta có ai
Ðời còn chi trong tay

Những lầm lỡ này-một kiểu cách điệu-nàng chỉ nhờ men rượu giảm bớt đi những ân hận trong lòng, uống cho quên đời, quên đi những lầm lỡ đã gây ra cho quê hương, chỉ không cơn say nào tồn tại đủ lâu để quên đi, biết bao ước mơ giờ đều tan theo ảo mộng, quê hương giờ còn gì?

Mai đây khi hoa tàn úa xanh xao phong ba dập vùi
Em xin nằm xuống mang theo con tim ngậm ngùi
Giấc mơ nhỏ nhoi đưa em vào cõi thiên thu yêu thương đời đời ...
        

Ngày nào, khi tuổi xuân tàn, xuôi tay nằm xuống ''nàng'' chỉ xin được mang theo con tim đau khổ đầy ân hận này vào cõi vĩnh hằng, xin hãy tha thứ để nàng mãi mãi giữ những yêu thương... nơi thiên đường vĩnh viễn.

42,       

Ask not what your country can do for you!

Tổ quốc bạc đãi, trường hợp Hazel Ying Lee.

Hazel Ying Lee đã được nhận bằng Pilot ngay trong năm đầu tiên mà cô được ngồi vào buồng lái. Cô đam mê bay lượn, hơn một thập kỷ sau đó, cô đã chết trong khi làm công việc cô yêu thích. Là nữ phi công Mỹ gốc Trung Hoa đầu tiên bay cho quân đội, cô đã hy sinh trên đường giao một chiếc máy bay chiến đấu từ New York đến Montana trong Thế chiến II.

Lee sinh tại Portland, Oregon 1912, sau khi tốt nghiệp trung học, cô đã làm một nhân viên thang máy tại một cửa hàng bách hóa trung tâm thành phố, một trong những công việc chỉ dành cho cô gái gốc Hoa. Nhưng cô cũng tham gia câu lạc bộ bay Trung Hoa của Portland, thời điểm này chỉ có ít hơn một phần trăm phi công ở Mỹ là phụ nữ, theo đuổi đam mê cô dành dụm tiền và bắt đầu học bay.

1933, với bằng bay trong tay, Khi Nhật tấn công Mãn châu, Lee hưởng ứng phong trào chống Nhật, cùng với nhiều kiều bào khác đi Trung Hoa, cô đăng ký vào không quân chiến đấu chống Nhật Bản. Mặc dù nhu cầu rất cần phi công, cô đã bị từ chối, cô sống ở Canton và bay cho một hãng hàng không tư nhân. Nỗ lực xin vào không quân Trung Hoa vẫn bị từ chối ngay cả khi Nhật Bản xâm chiếm bốn năm sau. Cô trốn sang Hồng Kông, trở về Hoa Kỳ và cuối cùng trở thành phi công cho quân đội Mỹ sau vụ Nhật tấn công Trân Châu Cảng.

WASP-Đội nữ phi công hỗ trợ, là một nhóm các nữ phi công tình nguyện phục vụ trong Không lực Mỹ, vì thời chiến những nam phi công chiến đấu cần cho mặt trận, nên nữ được tuyển chọn để giao máy bay từ các nhà máy sản xuất, những người nữ phi công bay những chiếc máy bay mới đến căn cứ huấn luyện, đến bến cảng để vận chuyển ra nước ngoài hoặc đến các điểm trung chuyển khác.

Lee đã được tuyển và đào tạo lái chiến đấu cơ tại Avenger Field ở Sweetwater, và đó là dịp mà cô đã kịp ghi vào lịch sử WASP: "Một lần trong thời gian đào tạo, do máy bay trục trặc Lee đã buộc phải hạ cánh khẩn cấp trên một nông trại, người nông dân lầm cô là phi công Nhật Bản lái máy bay xâm lăng Mỹ, đã dùng chiếc đinh ba rượt cô chạy lòng vòng chung quanh chiếc máy bay cho đến khi cô giải thích được mình là phi công Mỹ"

Tốt nghiệp, Lee gia nhập phi đội vận chuyển tại căn cứ không quân Romulus, Michigan. Cô là một trong khoảng 130 nữ có khả năng lái chiến đấu cơ tốc độ cao, trong đó gồm P-47, P-51 Mustang và P-63 Kingcobra.

1932

"Đối với phụ nữ để hầu như hàng ngày lái một máy bay với tốc độ gần 400 MPH xuyên khắp đất nước phải là người rất lãng mạn, khi ta biết rằng hầu hết phụ nữ và ngay cả đàn ông thời đó -thập niên 40- chưa bao giờ được ra khỏi tiểu bang, thậm chí có thể chưa từng ra khỏi làng.

Các cô gái trẻ, bị quyến rũ vì sự hấp dẫn khi là phi công bay lượn trên bầu trời, nhưng đây là công việc nguy hiểm, họ bay những chiếc máy bay trực tiếp từ dây chuyền lắp ráp, thường họ là người phát hiện quá trễ những lỗi lắp ráp trong khi bay giao hàng. Trong số 1.102 nữ phi công tham gia vào chương trình, 38 người đã chết và Lee là người cuối cùng tử nạn.

Tháng 11 năm 1944, Lee nhận nhiệm vụ bay chiếc P-63 từ nhà máy của Bell Aircraft tại Niagara Falls, New York. Vào khoảng 14:00 giờ, đến phi trường Great Falls, Montana cô nhận được lệnh hạ cánh, cùng bay trong nhóm nhiều máy bay nên đã xảy ra tình trạng lộn xộn, máy bay của cô đã đụng vào một chiếc P-63 khác trên đường băng hạ cánh và cháy. Cứu hỏa kéo cô ra khỏi chiếc máy bay cháy vụn, bộ đồ bay cháy xém khét lẹt, cô mất 2 ngày sau trong nhà thương.

Chưa hết, ngay sau đó gia đình cô cũng đồng thời nhận tin anh trai cô, Victor, đã tử trận ở Pháp, nơi anh ta chiến đấu trong kỵ binh Hoa Kỳ.

Nhưng khi gia đình chuẩn bị để chôn hai anh em trong một nghĩa trang ở Portland, Oregon. Những người quản trang cho là người châu Á không được phép chôn trong khu người da trắng. Nghĩa trang chỉ đồng ý cho chôn sau một trận tranh đấu dữ dội.

Mặc dù các nữ phi công đã bay dưới sự chỉ huy quân sự, những người này vẫn bị coi là thường dân và không nhận được bất cứ đãi ngộ nào từ quân đội. Họ thậm chí phải tự trả tiền phòng trọ, tự mua đồng phục bay. Jean Harman một cựu phi công nhớ lại, những nữ phi công đã phải quyên góp tiền để lo hậu sự khi một trong những bạn cùng phòng của họ bị tử nạn. "Chính phủ thậm chí không trả tiền cho đám tang của chúng tôi," cô kể "Chúng tôi đã phải góp tiền để chở xác đồng đội về quê nhà họ" Nhưng Harman cũng nhấn mạnh về tình yêu với bầu trời "Đó là một đam mê" cô nói. "Và ai nói rằng làm phi công vì yêu nước chỉ là thêm mắm dặm muối"

Hơn 30 năm sau, những nữ phi công trong WASP cũng được thừa nhận công lao, khi Hạ viện và Thượng viện đã bỏ phiếu chấp nhận cho họ đủ điều kiện hưởng quyền lợi cựu chiến binh.

King Cobra 
Tổng hợp 42.
(http://www.cbsnews.com/news/first-chinese-american-woman-to-fly-for-military-died-in-fiery-crash/)