Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

Chuyện Biệt kích, về Biệt đội B52/Delta #2

                  Biệt đội B52 (Project Delta) tại Nha Trang – 1968 (Photo: John Link © Terrance Link)

Vào sáng sớm hôm sau, các đơn vị tập hợp lại điểm danh và chuẩn bị để rút lui, dẫn đầu là đội Delta Recon. Các toán quân, mà rất nhiều người trong số đó bị thương, bị tấn công dữ dội trong đêm với các chiến binh bị thương nằm rải rác khắp nơi trên khu vực đổ bộ tan hoang giờ mới bắt đầu có thể kiểm điểm quân số. Hôm đó là ngày 30 Tháng 03 năm 1968.

Di chuyển lặng lẽ xuyên qua những rặng cây rừng mù sương, đoàn dài những chiến binh di chuyển hướng về một khu vực gần con suối cạn uốn vòng theo hướng mà họ cần đi. Rừng già bao phủ khoảng không trên cao. Không quân được gọi oanh kích dữ dội chung quanh nhằm che dấu hành tung cuả nhóm chiến binh đang hành quân, họ có thể nghe thấy tiếng bom nổ ầm ì chung quanh trong khi đang chuyển hướng đến một bãi đáp an toàn hơn để được trực thăng bốc ra khỏi khu vực. Những chiếc poncho -trong đó cuốn chặt những xác chiến binh chết hoặc làm võng cho những chiến binh bị thương- được cột hai đầu xỏ trên những khúc cọc tre như những chiếc võng lúc lắc cấn sâu vào xương vai cuả những người lính còn khoẻ mạnh đang khiêng.


Cánh tay cuả thiếu tá Morris đã sưng tấy lên gấp ba lần kích thước bình thường và nhói lên đau đớn khủng khiếp mỗi lần ông cất bước cùng với nhóm lính bị thương đi bên cạnh. Y sỹ Taylor, một quân y sỹ khác trong nhóm cứu thương đi đến gần để kiểm tra về tình trạng ông ta, và nhân cơ hội này vị thiếu tá đã hỏi thăm về hai người lính trẻ mà ông đã cố gắng để giúp đỡ hôm qua.

                               Trung sỹ John F. Link – “De Oppresso Liber” (Photo: © Terrance Link) 
  
Liếc nhanh xuống đất, viên y sỹ thì thầm trả lời, "John Link chết sáng nay, lúc chuẩn bị rút lui. Merriman thì chắc sẽ qua khỏi, không sao" 

"Tôi cảm thấy chán nản"..."không phải tự trách, chỉ là cảm thấy quá tệ... Không, thật là vớ vẩn! Tôi cảm thấy mình có lỗi ..." thiếu tá Morris nhớ lại.

Cuối cùng toàn nhóm đã đến khu vực bãi đáp mới vào cuối ngày. Họ đã phải luồn lách xuyên qua nhiều dặm dài của rừng già dày dặc, và cố tránh những cuộc tao ngộ chiến với địch quân. Đội Recon đã giữ liên lạc chặt chẽ với lực lượng không quân yểm trợ, không quân đã phối hợp tung ra rất nhiều cuộc không kích quấy rối nhằm giữ quân Bắc Việt không ra khỏi vị trí ẩn núp cuả họ. Những nhóm chiến binh khác nhau cuả Biệt động quân Việt Nam, các cố vấn Mỹ, phi công Thủy quân lục chiến và hàng chục người lính bị thương đã kiệt sức. Rất nhiều chiến binh không thể di chuyển nổi. Mọi người ngồi ở bất kỳ nơi nào có thể được để dưỡng sức trong khi chờ đợi trực thăng đến. Ánh sáng mờ dần dưới tán rừng, bóng tối như tô thêm cảm giác ảm đạm tại hiện trường khi xác các chiến binh đã chết được khiêng đến, quấn chặt trong những chiếc poncho đẫm máu của chính họ, tiếp theo sau là những chiến binh cuả toán đi bọc hậu. Hai chiến binh mang xác John Link nhẹ đặt xuống mặt đất khoảng 8 feet từ chỗ Morris đang nằm.


Một chiến binh mũ xanh với gương mặt ảm đạm đi tới và khuỵ gối xuống bên cạnh cơ thể Link, cởi chiếc nón vải sọc cầm tay, sau một chút lặng thinh, anh vỗ nhẹ lên đầu khúc tre được cột chặt vào chiếc poncho bó xác Link. "Hừ! John, bạn hiền" chàng chiến binh trẻ lẩm bẩm "đ.m." sau đó anh đứng dậy, chụp chiếc mũ trở lại trên đầu của anh ta và bỏ đi trong im lặng. Một khoảng thời gian ngắn chỉ có âm thanh của gió vi vu trên cây, tiến chim rừng, và tiếng kêu rả rích không ngừng của côn trùng. Nếu trực thăng không đến bãi đáp trước khi trời tối, những người lính chiến sẽ phải nằm lại thêm một đêm trong rừng, và nếu điều đó xảy ra thì đã có thêm rất nhiều người chết, và Morris chắc chắn sẽ mất cánh tay vì vết thương không được chữa kịp thời.


Chiếc cáng thương cuả Al Merriman được hạ xuống mặt đất cách cái xác cuả Link vài feet, mắt anh nhắm hờ trong khi anh lặng lẽ hút một điếu thuốc, nhả ra những vòng khói màu xanh nhẹ nhàng bằng mũi và khóe miệng của anh ta! Chiếc quần rằn ri đã bị cắt hết ống lên đến trên đầu gối và hai chân đã bị băng cứng bằng băng cứu thương, bộ chiến y rằn ri đã bị nhuộm đen bởi máu đã khô cuả cả hai người -anh ta và John Link- nhưng không chắc là anh ta biết về điều này. Người lính trẻ đang tê liệt với sốc, cộng thêm với Morphine và Demerol .


Morris loạng choạng đứng dậy, choáng váng do mất máu nhiều, và nắm giữ chặt cánh tay bị thương của mình, cố gắng di chuyển dần về chỗ nằm cuả người lính trẻ, đứng nhìn xuống khuôn mặt của người lính đang nằm dài trên mặt đất. Ở tuổi 31, Morris là một cựu chiến binh thiện chiến, ông đã được ân thưởng ba huy chương Purple Heart (Chiến thương bội tinh) trước khi Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng năm 1965. Merriman trông rất trẻ, và vẫn còn những vết ố cuả sơn ngụy trang màu xanh lá cây và đen dọc theo đường quai hàm của anh ta. Với một chút do dự, ông nói: "Này, thật, tôi cảm thấy thật chó má khi rời khỏi các anh  như thế"


Merriman mở mắt, lấy điếu thuốc lá ra khỏi miệng của mình, nhìn thẳng vào Morris anh chậm rãi lắc đầu và trả lời: "Quên đi, anh phải hành động như... tôi thấy những gì đã xảy ra mà"


"Điều này làm tôi cảm thấy đỡ hơn một chút!" Morris nhớ lại "nhưng không nhiều" Ông dừng lại một chút , như thể cố gắng để quyết định là ông muốn biết câu trả lời cho câu hỏi tiếp theo của ông. Sau đó ông hỏi, "bao lâu mới được cứu?"


Với một cái cau mày nhẹ trên khuôn mặt, chàng lính trẻ dường như cố nhớ lại những khoảng khắc khủng khiếp đã trải qua. Nhắm mắt lại với một tiếng thở dài, sau đó với giọng thì thầm khàn khàn anh ta nói "mười lăm phút"


"Trời, lâu dữ vậy?" Morris khẽ rên lên. Merriman nhướng mắt lên một lần nữa và gật đầu, mắt lấp lánh nước trong khoé. "Đúng vậy, nhưng chúng tôi đã bị dính tràng đạn đó, lúc anh đang ở đó...chúng tôi chỉ nằm im sau đó, và địch đã không bắn thêm nữa"


                                         Thiếu tá Jim Morris ở Việtnam (Photo: © Jim Morris)
                                                                 
*********************************************************************************** 

Năm 1968 tôi đang làm việc cho Eastern Air Lines và vẫn đang sống trong ký túc xá trường Concordia, Lonnie kết hôn, làm việc cho hãng hàng không quốc gia, và sinh sống tại Miami, Florida. Cả hai chúng tôi đã bay tới Iowa dự lễ tang của John tại nhà thờ Công giáo Thánh Patrick ở Ottumwa hôm thứ Tư 17 Tháng 4 năm 1968. Johnny Link, bạn thân và anh hùng của chúng tôi, đã được đề nghị cho Medal of Honor, đã được trao tặng Distinguished Service Cross và Purple Heart. Anh lúc đó 23 tuổi.

***********************************************************************************

"Tổng thống Hoa Kỳ rất vinh dự trong việc tuyên dương "Distinguished Service Cross" cho trung sỹ/quân lực Mỹ John Francis Link, cho những hành động anh hùng đặc biệt trong cuộc hành quân liên quan đến trận xung đột với địch quân ở Việt Nam Cộng Hòa, trong khi phục vụ tại biệt đội B52, tiểu đoàn 5 biệt kích (nhảy dù), thuộc lữ đoàn 1 lực lượng đặc biệt. 

Trung sỹ Link đã tự khẳng định mình qua hành động đặc biệt dũng cảm vào ngày 29 tháng 03 năm 1968 trên cương vị là cố vấn biệt kích cho một trung đội VNCH trong trận tấn công vào đất địch. Khi đơn vị vừa hoàn tất đổ quân từ trực thăng xuống bãi đáp trống trải, bị tấn công bằng các loại vũ khí tự động, tên lửa, lựu đạn và súng cối từ trận phục kích cuả đối phương trên cả ba mặt cuả khu vực bãi đáp. 

Dũng cảm vượt qua lửa đạn địch quân, trung sỹ Linh đã di chuyển băng qua khu vực trống trải cuả bãi đáp, tháo gỡ và thu hồi các thiết bị trên hai máy bay bị bắn rớt bởi hoả lực khốc liệt cuả địch quân, anh đã xử dụng hoả lực bắn chặn về phiá địch quân hầu có đủ thời gian để giải cứu ba chiến binh bị thương đến vùng gò cao an toàn nơi bià rừng, tại khu vực bãi đáp. Tiếp tục trực diện hứng chịu những đợt tấn công, trung sỹ Link và đồng đội đã đẩy lui nhiều đợt tấn công dữ dội cuả địch, hầu có đủ thời gian cấp cứu và di chuyển những chiến binh bị thương vào khu vực an toàn. Trúng hoả tiễn và đạn cối, anh bị hất văng xuống đất và bị thương nhưng đã dũng cảm tiếp tục chiến đấu và giúp cứu cấp các chiến hữu, trong khi cố che chắn cho một chiến binh đã bị thương khỏi tầm đạn đối phương, trung sỹ Link đã bị trọng thương".

***********************************************************************************

Cái chết của John Link đã được ghi chép trong ít nhất ba cuốn sách về chiến tranh Việt Nam và trong tập san "Soldier of Fortune" (tháng 8/1981). Bucky Burruss, trong cuốn sách của ông tựa đề "Mike Force" đã viết: 

"Trở lại Nha Trang , tôi đã nghe đến lữ đoàn Biệt kích (trong chiến dịch Delta) đã đụng một trận rất nặng khi tấn công vào khu vực đường tiếp liệu cuả quân Bắc Việt. Một số trực thăng CH46 cuả thủy quân lục chiến đã bị B40 bắn rơi khi đang đổ quân xuống bãi đáp, bị tổn thất nặng nề. Một trong số những tử sỹ là Trung sỹ John Link, một chuyên gia phá huỷ trẻ tuổi, người đã từng là đội viên trong nhóm cuả tôi tại Fort Bragg. Anh đã tử trận trong khi đang cố giải cứu một đồng đội bị thương dưới hoả lực địch từ bãi đáp trực thăng, che chắn người đồng đội khỏi hoả lực súng máy địch, do vậy, anh đã được truy tặng huy chương Distinguished Service Cross".

John Link là một trong những chiến binh mà tôi ngưỡng mộ, một chàng trai trẻ đã không có bất kỳ liên hệ gì giữa cái chết và sự tàn phá của chiến tranh, chỉ có niềm tin mạnh mẽ vào những việc mà chúng ta đã làm. Phải đối mặt với các bài báo vớ vẩn cũ mèm, những hình ảnh cuả Link in trên các áo thung cùng một kiểu của bọn biểu tình hippy, tôi ngồi xuống bên ly rượu mạnh, viết bài thơ về người bạn trẻ:

Coi đây. 

Đã bao giờ bọn mày nhìn thấy nước mắt chiến binh?

Khóc ư
Vì người bạn nằm xuống hôm nay -không chỉ là chiến hữu-

mà là thằng bạn trẻ thân.

Bọn mày sẽ không hiểu sao nó chết,
Sao tao khải khóc thương? 

Bọn mày sẽ không bao giờ hiểu
Tại sao chúng tao ở đây?

Chỉ tao biết, nó biết.

Mong rằng ngày nào đó, như chúng mày,
Tao sẽ quên được -nếu tao sống đủ lâu.

Link

KIA - 1968 
Ranger valley, Việt Nam Cộng Hòa.


 [“Unlikely Warriors: The Army Security Agency’s Secret War in Vietnam 1961-1973” by Lonnie M. Long and Gary B. Blackburn is dedicated to Sgt. John F. Link. This piece is based on the “Unlikely Warriors” dedication and these additional sources: “War Story” – Chapter 32, by Jim Morris; “Mike Force” – Chapter 8, by Lt. Col. L. H. “Bucky” Burruss; “The Ether Zone” – Chapter 23, by R. C. Morris; projectdelta.net; and various family sources.]



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét